Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

Kỹ Thuật Một Thời-Thơ Kim Phượng-Diễn Ngâm Hương Nam




Thương tặng Chị của em và tất cả Học Trò Chị 
Kỷ niệm một thời rất đổi dễ thương! Ngày xưa và mãi mãi......
Thơ:Kim Phượng - Cựu Giáo Sư Kỹ Thuật
Diễn Ngâm:Hương Nam - Cựu Học Sinh Kỹ Thuật Thủ Đức
Hình Ảnh: 
Cựu Học Sinh Kỹ Thuật Vĩnh Long:Trương Kỳ Quốc - Lớp 12E, Niên khóa 1974-1975  
Cựu Học Sinh Kỹ Thuật Vĩnh Long:Trần Văn Hữu - Lớp 10 " i ", Niên khóa 1974-1975 
Thực Hiện: Kim Oanh

Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013

Nguyên Chương, Tâm Khúc Thở Dài


1/ Hãy Yêu Lại Từ Đầu - Ca Sĩ Thùy Dương

2/ Hình Như Là Tình Yêu - Ca Sĩ Anh Dũng


3/ Những Gì Còn Lại - Ca Sĩ Nguyên Khang


Nhạc Sĩ: Nguyên Chương
Ca Sĩ: Thùy Dương
Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh

Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Thềm Xưa Vẫn Còn

 
(Họa bài Mất Tích Ngôi Trường Xưa của Hoài Tử)
              
Chắt chiu kỷ niệm chửa mờ
Tiền Giang sóng vỗ hai bờ nỗi đau
Tàng me bóng mát cao cao
Cổng trường phượng vỹ khắc sâu ngõ hồn
Lật mồ dĩ vãng u buồn
Thềm hoang khắc khoải bởi còn nhớ sông
Áo trắng nào dễ thay lòng
Từng trang lưu bút đượm dòng yêu thương
Ngôi trường mất tích vết thương
Cũng đây lạc lối chung đường chơ vơ
Nguyễn Trường Tộ của tuổi thơ
Còn chăng nền cũ không ngờ. Than ôi!

Kim Phượng
 

Thơ Tranh: Mưa Chiều


Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Mưa Chiều

Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013

Tuổi Học Trò Tôi Làm Cô Giáo

         "Phượng, ráng học để sau này làm cô giáo nghe con!"
         Má tôi tựa cửa, vừa nói mà đuôi con mắt còn vuốt theo đám nữ sinh đi qua ngang nhà. Giá như, đang đứng trước cổng trường Tống Phước Hiệp, trong giờ tan học, liệu ước mơ của má to lớn đến ngần nào. Vậy mà, tôi thật tàn nhẫn: - Con sẽ không làm cô giáo đâu má ơi ... và con cũng không bao giờ làm việc tại tỉnh nhà. Nhưng rồi, câu nói linh ứng "Ghét của nào trời trao của đó", ông trời trao cho tôi đến hai "của". Tôi làm cô giáo ở tuổi học trò và dạy học trò tại tỉnh Vĩnh Long. Tội cho má, người làm sao biết khi đang dệt mơ, muốn con của mình trở thành cô giáo là lúc tôi đứng hàng thứ ba sau quỉ, ma, thích phá phách và lắm mộng ngoài cửa lớp, thì yêu gì cái thiên chức nhà giáo cơ chứ.


        Thích làm việc xa nhà! Tôi như chim non chưa ra ràng, không lượng sức mình mà định vỗ cánh bay xa. Trong nhiều lý do, nhưng sâu xa nhất để không ở tỉnh nhà là.. quê tôi quá "nhỏ". Nhỏ hơn cả Pleiku, "nơi đi dăm phút đã về chốn cũ...". Vĩnh long nhỏ đến độ không có chỗ để "dám" đi. Nơi đây, dù rằng ai qua một lần cũng nhớ. Nơi có dòng sông lững lờ trôi, có mái chèo khua nước sớm mai , vẳng xa tiếng hò khoan nhặt đi dễ khó về, nhưng lại là nơi "không dám"đi. Bởi vì, là nơi vừa hỏi đến tên cha mẹ, thì không cần phải "Cho anh xin số nhà này...", nơi vừa chạm mặt đã biết nhau, là nơi định cư của dân kỳ cựu. Ở đây, là người Vĩnh Long, dù trái tim còn đang trong thời mong chờ, cũng rất ngại ngùng dung dăng dung dẻ với người tình trên đường phố. Nơi, ngại đi thăm vườn ổi, ghé vườn dưa gang. Nơi, rất e dè đến viếng lăng miếu Phan Thanh Giản. Nơi, có cù lao An Thành thơ mộng nhưng ít bén mảng đến, nhưng rồi... tôi lại chôn chân chốn này, khi con tim lay động, lúc biết vui buồn...



           ( Cô Phượng đứng trên "cầu giao duyên" của trường Kỹ Thuật Vĩnh Long)

         Ðời! Làm sao tôi học được chữ ngờ.
       Làm cô giáo khi đang là sinh viên năm thứ ba Khoa học. Tôi chọn một nghề mà mình không thích. Mà bấy giờ, ở Việt Nam làm gì có cơ hội chọn lựa nghề nghiệp, khi còn đang miệt mài trên ghế nhà trường, như sinh viên, học sinh bên này. Tôi không yêu nghề, chỉ yêu tí tiền còm. Có tiền để giam mình trong rạp hát, đến 3 xuất một ngày, thương vay khóc mướn cho chuyện tình Love story. Lựa một nghề không thích, nhưng đành, phải dùng sở trường sở đoản của mấy năm Đại học, để thêm tiền, đặt nặng vào ví, cho oai. 
        Trong sân trường Đại học học đại này, các nữ sinh viên con nhà giàu, như muôn hoa thắm. Em chọn áo vàng cho anh về ngất ngây bên hoa cúc. Nàng khoác áo xanh khiến chàng "mến lá sân trường". Còn tôi, tội nghiệp lắm, vừa "chân quê", lại sinh ra trong gia đình mười anh chị em, nên mưa nắng hai mùa, y phục cái nghiêm cái nghỉ, cũng chỉ toàn một màu "áo ai trắng quá nhìn không ra". Trắng, màu của thuận lợi, số áo có ít cũng ít ai có biết, nhưng chẳng giúp tôi già dặn thêm trong lúc phỏng vấn tay nghề. Tuy vậy, sau lần phỏng vấn đó tôi được phụ trách môn Vạn vật lớp 11A và 11B tại trường, Trung Học Tư Thục Nguyễn Trường Tộ. Ðối với 11B, đây là môn phụ, nhưng sĩ số "quỉ phá nhà chay" khá đông. Lớp 11A, tỉ số "dân nghịch ngầm" vừa nhiều, lại là môn chánh. Ôi đường vào "TIỀN" yêu, quả lắm chua cay!
        Cô giáo trong tuổi học trò, tuổi đời ít, nghèo kinh nghiệm, nhưng bầu nhiệt huyết thật tràn đầy. Ðể nắm phần chắc trong buổi đầu, vừa rời văn phòng nhà trường, tôi đi tìm ngay cái nơi mình sẽ đến. Gặp một nữ sinh đi ngược chiều: 
        - Xin lỗi, chị có thể chỉ giùm tôi lớp 11A?
        Cô mỉm cười, tròn mắt nhìn tôi:
        - Chị là học sinh mới hả? Kia kìa, đứng nơi đây chị có thể nhìn thấy hành lang của lớp đó.
        Tôi cám ơn và đi theo hướng chỉ dẫn. Lúc nhìn được con số 11A, tôi mỉm cười, bước vội.
Tuần lễ sau, cũng trên con đường cũ, dẫn đến lớp học. Trong bộ đồng phục trắng như nữ sinh, khác chăng là chiếc túi xách tay, do tôi tự làm lấy, đeo lủng lẳng trên vai. Theo chân thầy Giám Học Trần Văn Phong, tôi thong dong bước mà lòng...bình t
ĩnh run. Nhìn bọn học sinh, đứng lố nhố dọc theo hành lang, đang đợi chờ vào lớp, tim tôi đập nhịp lạ thường. Sau lời giới thiệu của thầy Giám Học, cô nữ sinh đã chỉ đường cho tôi, mắt như tròn thêm khi cô nhướng cao đôi mày.
         - Ủa, cô là cô giáo lớp này hả cô?
        Tôi gật đầu, mỉm cười, cười vừa đủ khoe một ưu điểm duy nhất mà tôi có, là chiếc răng khểnh mà mọi người cho là dễ thương.
        Thủ tục hoàn tất, tôi bắt đầu vào nghề, nhưng... ô kìa...
       Hướng về một nam sinh:
        - Xin lỗi em tên chi?
       Hơn 30 năm thăng trầm, Sanh, tên em tôi vẫn nhớ. Anh chàng nom hiền, trông bảnh kia mà lại "thích" ăn ổi trong giờ dạy học đầu tiên của tôi. Hồi ức năm nao ùa về. Ðã gần 10 năm, mà hình ảnh tôi, đứa học trò lớp Ðệ thất 4, trường Công Lập Vĩnh Bình, ngồi gọt vỏ đu đủ ngay trong giờ học lại trở về. Với kinh nghiệm của thời cắp sách...
        - Em lên đây, mang cả trái ổi.
         Mặt anh chàng vênh váo nhưng không giấu hết nét hiền lành. 

        - Em hãy tiếp tục ăn đi, bao giờ xong chúng ta sẽ bắt đầu học.
        - Em không ăn nữa đâu cô. 
        - Em hãy ăn cho xong, rồi cô sẽ bắt đầu
       Trông anh chàng quá thảm. Thật ra, sau lời giới thiệu của thầy Giám Học, các em học sinh nói vừa đủ nghe thôi: "Cô giáo gì nhỏ xíu". Lời nói chẳng biết phát xuất từ ai, nhưng em đang ăn ổi đây, phải nhận lấy bản lĩnh của cô giáo nhỏ xíu này. Tuy nhiên, suốt năm học, em lại là một học sinh ngoan vừa giỏi lại dễ thương nhất của tôi. Mấy mươi em học sinh trong lớp này ơi, làm sao các em biết, cả tuần qua, sau buổi phỏng vấn, trở về nhà, một mình, tôi đứng trước bảng đen phấn trắng, đã tập làm cô giáo đầy kinh nghiệm hầu chững chạc hơn trong bước đầu trên bục giảng.

     (Cô Phượng và Lớp Mười "C" - Kỹ Thuật Vĩnh Long niên khóa 74 -75)

        Ðường công danh về nghề mình không thích, lại thênh thang rộng mở. Chỉ vài tháng sau, tôi phụ trách thêm Toán và Vật lý lớp 10, 11, ban Toán lẫn Chuyên Nghiệp tại trường Kỹ Thuật Vĩnh Long. Mở một dấu ngoặc về trường này. Trường được sự tài trợ của chính phủ Mỹ. Các học sinh trúng tuyển, sẽ được lãnh trợ cấp một số tiền, tuy khiêm nhường, nhưng đó là một đặc điểm mà các em hãnh diện. Học sinh ban Toán, giờ học Toán và Vật Lý chiếm đa số. Ban Chuyên Nghiệp, nặng về các môn, tùy sự chọn lựa của học sinh như ban Mộc, Sắt, Hàn, Tiện, Ô Tô. Các em gái thì có môn Nữ Công Gia Chánh. Ðồng phục nam cũng như nữ của học sinh là quần tây, áo sơ mi, toàn một màu xanh. Các em trông hách hơn trong những hôm kè kè cây thước kẻ trong tay cho bộ môn Kỹ Nghệ Họa. Còn những học cụ khác của các môn Chuyên Nghiệp, có lẽ đó là nguyên nhân mà học sinh mang biệt danh dữ dằn "Dân dao búa". Cũng chính cái biệt danh này, mà ngày xưa, tôi đã chối từ lời khuyên của anh tôi để thi tuyển vào trường Kỹ thuật này.

        -Thôi em không muốn làm dân dao búa đâu. Tôi đã trả lời với anh mình như thế.
       Giờ đây, sự thật quá tương phản, tôi là "sư phụ"của họ.
      Tuy nhiên, gia nhập vào gia đình Áo Xanh này, tôi đã hiểu, đôi khi "dư luận thật tàn nhẫn và thiếu trung thực". Có tiếp xúc, mới biết các em dễ thương hơn những điều thầy cô mong đợi.
       Dòng đời cứ trôi, nghề làm chẳng thay. Cô giáo dạy cho cả hai trường, nay trường này, mai đến trường kia, rồi ngày mốt trở lại giảng đường tiếp tục việc học, để nói lời dạ thưa, thay cho lúc khác có người thưa dạ.

Có chút tiền, tôi đánh nhiều vòng quanh chợ Vĩnh Long, chọn vải. Lại vẫn là tơ tằm, loại trông sang nhưng không bền, phí nhiều công ủi và cũng vẫn màu "áo ai trắng quá..". Đến sau 30 tháng 4 năm 1975, người chị thứ Năm tôi thường trêu : "Chọn tơ may áo dài cho sang nhe!", vì sự không bền của vải và tài chánh lại eo hẹp.
        Do tự may mặc, nên chỉ cần 1.8 mét vải và một cái rặp áo. Tôi tha hồ cắt xén, tà áo rộng hẹp, ngắn dài. Hẹp đủ ôm tròn chiếc quần ống loa. Áo dài vừa chấm gối, lay lay trong gió, đủ làm duyên trên chiếc xe đạp mini .
        Có thêm chút tiền, thêm chút đổi thay màu áo. Ði xe đạp vàng, tôi khoát áo tơ tằm vàng. Ðạp xe màu bạc, chọn màu áo hài hòa. Trong những ngày cuối đông, sang xuân, mặc áo đỏ, mái tóc chớm dài, thắt chiếc bím lẻ, cúc cài thay trâm. Vào hè, màu áo đi đôi với dây cột tóc hoặc thay khăn voan đen. Khi ve râm ran, tà vạt phất phơ và trải đầy hoa in, bông Phượng nhỏ to. Những hôm mưa sa, nắng gắt, lại "điểm" thêm chiếc ô đen lơ lững vắt ngang, che bờ vai mỏng nắng tràn xuống chân. Thật tình cờ, Vĩnh Long có ba người có tên bắt đầu bằng chữ P, thầy Phong, thầy Phương và tôi, đều dùng ô đen. Ðể rồi từ đó, có người gọi tôi "Cô giáo ô đen".
         Làm cô giáo ở tuổi học trò, một sự khó khăn và cố gắng không ngừng. Tự tạo cho mình sự dễ thương trong trang nghiêm, nhưng thương không phải dễ. Lúc nào cũng gần gũi với học sinh, nhưng lại giữ một khoảng cách khá xa. Tôi biết, nếu bảo rằng con học cho cha mẹ vui lòng, e là không thật lòng. Tuổi học trò, làm gì có suy nghĩ cao xa. Tôn trọng thầy, mến yêu cô nào, học sinh miệt mài về môn học do thầy cô đó phụ trách. Học vì thầy cô, điều đó tôi biết rất rõ trong những ngày mình còn là học sinh. Vị trí thầy cô quan trọng đến chừng ấy. Chắc chắn như thế, gần mà xa, dễ mà thương khó! 
        Trong thời chiến tranh, một số nam sinh đã hạ giảm số tuổi. Nên so ra tuổi thật, các em chỉ thua người dạy một hoặc hai năm, thì nhân vật chính trong tác phẩm của Nguyễn thị Hoàng, không thể không xuất hiện.
        Cô giáo"cô giáo gì nhỏ xíu", ưa đơn sơ, ăn mặc đặc biệt không muốn giống ai lại dễ làm lay động các anh chàng học sinh thích làm người lớn, mà lớn thật, có em cao hơn tôi cả cái đầu. Một lần trong k thi, với nét chữ nắn nót trong bài viết:

"Trời cuối đông rồi cô biết không
Bao nhiêu thương nhớ bấy nhiêu mong
Bao nhiêu chờ đợi bao lưu luyến
Ðâu chuyện ngày xưa đỏ má hồng
Ngoảnh lại thời gian qua vun vút
Ba năm tròn chẳn phải không cô
Bao năm xa cách ôi hoa sứ
Hoa rụng đầy sông với xác xơ." *


        Làm gì có chuyện tôi dạy nơi ấy 3 năm tròn chẳn. Có chăng, trường Kỹ Thuật chỉ đầy hương hoa Sứ và tàng Phượng vỹ rợp bóng sân trường, gây cho anh chàng tức cảnh sinh tình, nhưng Nguyễn Thị Hoàng đã nói thay các cô giáo trẻ: "Vòng tay học trò làm sao em giữ nổi cô." Khó khăn hơn thế nữa, khi học sinh là thân nhân, kẻ tôi gọi là cậu, người kêu tôi bằng dì. Dù không nói ra, nhưng chắc rằng việc trở thành một Bao Công xử án trong bộ phim dài đến 30-40 tập, về chí công vô tư, hẳn tôi phải có. 
       Như đã nói, làm cô giáo trong tuổi học trò, khó vẫn gặp khó, nhưng may còn luật bù trừ "Hôm nay làm thầy cô cho người phá, mai đây tôi phá phách lại thầy cô". Bao kinh nghiệm thời cắp sách, trao lại tôi, cô giáo tuổi học trò. Tôi luôn nhớ, học trò học vì thầy cô, tôi cũng sẽ hết lòng vì các em. Tôi ôn vào trí tất cả vui buồn thời áo trắng, thời dễ giận cô, hờn thầy của ngày xưa, những điều làm tôi vui hay những lúc phật lòng. Tôi thật hết lòng, cố gắng ghi nhớ, nhào trộn kiến thức của thầy này, cô nọ. Tôi thêm thắt một ít kiến thức mới lạ, gây thích thú, mà tôi tìm được trong Hiển Hoa Bí Tử của thầy Phạm Hoàng Hộ. Hướng dẫn cho các em trong môn Vạn vật, biết tạo nét vẽ đẹp và một vài mẹo vặt, không bao giờ sai, khi vẽ sự liên kết của các tế bào trong thân cây, cuống lá. Hoặc tôi theo chân Người dạy tôi năm Đệ Tam là thầy Trương: "Ðứa nào hạng nhất môn của tao là đứa đó giỏi thiệt".
        Trong bài thi, thầy không cần viết đúng nguyên văn, quan trọng là nắm ý chính, cũng vì thế, thầy làm tôi hú hồn hoài. Bởi những câu hỏi thầy đặt ra, không ai trả lời, thầy "lôi đầu tôi" đứa hạng nhất. Tất cả các bộ môn, Toán, Vật lý hay Vạn vật, tôi cộng các lối dạy, ngắn, gọn, điều nói ra chắc chắn như được chứng minh mà thầy dạy Toán đã làm. Không khô khan, pha trò thêm ướt át theo lối của thầy dạy Văn. Dễ dàng ghi nhớ các công thức bằng những mẹo nho nhỏ. Không! tôi không bao giờ quên sự tận tâm, đến tận bàn các học sinh để giải thích cho các em không theo kịp bài, như thầy dạy tôi về môn Vật lý năm lớp Ðệ nhất.
        Rồi...đất trời nổi trận phong ba, mùa hè năm ấy chia xa phận người. Sau ngày phong ba 30 tháng Tư đen đó, tất cả các giáo sư, đều phải đến trường trình diện. Ðể nhìn ra, học sinh mình, giờ đây là người có toàn quyền đề cử thầy cô vào đoàn thể. Những con người cũ phải gắn vào tư tưởng mới, có thầy cô đã không được dung thân ngay buổi đầu. Sau cuộc đổi đời, ước mơ không muốn làm cô giáo ngày nào của tôi, không được như ý. Tôi, bây giờ trở thành giáo sư thực thụ của trường Kỹ thuật Vĩnh Long.
        Tháng Tư dù có đen, nhưng chính đám học trò, đã cho thầy cô giáo còn thấy vầng hồng trong buổi bình minh, bằng những niềm vui đến muộn. Sau cuộc đổi đời, đời sống của các em học sinh trở nên khó khăn hơn, tùy theo hoàn cảnh gia đình, nhất là các em có cha mẹ là quân nhân, công chức. Tuy nhiên, sự hồn nhiên và tinh nghịch, có lẽ là liều thuốc giúp các em hồi sinh, nên khi chân chạm cổng trường, học sinh vẫn tật cũ. Trong những giờ cùng nhau "lao động tốt", chúng nghịch đủ trò. Các em gán tôi với ông này, có lúc lại ghép với thầy khác, điều buồn cười, khi các thầy ấy đến gần tôi trò chuyện, thì y như rằng những anh chàng thích làm người lớn, mượn vai trò phụ trách lớp của tôi, chúng dài giọng:
        - Cô của em đó nhe thầy!
        Cuối năm ấy, giáo sư chúng tôi nhận lệnh mới, trường Kỹ thuật sẽ "giải thể", các học sinh được đưa trở về nguyên quán. Họ sẽ không chịu trách nhiệm gì, về việc các trường địa phương có thu nhận các em vào đó học hay không. Ðây là nỗi đau, đã cứa nát tâm hồn của thầy cô giáo, từng gắn bó với trường trong vai trò "Trồng người".
 Việc đời nhiều đổi thay, không tránh khỏi. Hôm qua em là học trò cô, hôm nay em vẫn là học trò cô, trong kiến thức. Còn về địa vị mới , các em hơn hẳn. Tuy nhiên, bàn tay năm ngón dài ngắn, dù thời đổi, các em hẳn chưa thay câu tiên học lễ, nên các học sinh ấy đã giúp tôi rất nhiều và cũng che chở cho cô của chúng rất nhiều.
        Ngày chia ly rồi cũng đến. Lời cuối cùng nhắc nhở nhau, cho các em "Dao búa" của tôi và cho chính mình 
        - Học một giờ!
        - Học một ngày! 
        - Và học suốt cuộc đời
       "Sỏi đá cũng còn có nhau"! Cơ hồ gì những tình cảm gắn bó trong chuỗi ngày dài làm cô phụ trách lớp. Những buổi lao động, nhặt rác trên các con đường quanh tỉnh. Những lần khua chiêng, gióng trống đưa thầy cô cùng lũ học trò lên đường, đi đấp đập Bến Giá và dĩ nhiên là đấp không được, lại được đổi lời, đưa đi để thử lòng dân.
        Chia tay nhau rồi, cơ hội gặp lại mong manh như tơ trời. Thế là một số em ở nội trú và tôi gặp lần sau cùng, tại quán cóc, nằm dọc vĩa hè đường Nguyễn Huệ, ăn bữa cuối. 
      Cái tổ Kỹ Thuật tan nát. Bao nhiêu con chim non chưa ra ràng, buộc phải đập cánh bay tứ phương. Các em về nơi xứ xa. Tôi, thành phần độc thân, ngậm ngùi đến xứ lạ, quận Tam Bình. Ðối với các giáo sư Sài Gòn về quê tôi nhận việc, dân Vĩnh Long đã là chân quê. Tôi giờ đây, trở thành dân quê thứ thiệt ở miệt này.
        Ngày đầu đến trường Tam Bình, nhìn nữ sinh đã bị mất tà áo trắng trinh nguyên, nam sinh lượm thượm với chiếc áo bỏ ngoài, không nịt thắt, mà cả ngay ông Hiệu Trưởng cũng như thế, các em làm gì khác hơn. Sân trường Tam Bình còn đâu áo trắng nhởn nhơ ra vào. Vào đến lớp, bắt gặp những khuôn mặt già hơn tuổi đời. Quanh đây bao nét ngây thơ hằn lên mệt mỏi, có em ngủ gà ngủ gậc. Hỏi ra mới biết, đêm rồi em thức gần sáng trắng, để giữ lửa cho lò đường, phụ mẹ cha kiếm thêm tiền. Vào mùa gió chướng, Tết sắp đến, lớp càng vắng hơn, khi các em còn phụ thêm việc đồng áng.
        Về miệt vườn, phần đông phụ huynh rất ưu đãi các thầy cô giáo mới, trẻ như chúng tôi.
        - Cô giáo cứ chấm bài đi nghe, tôi về nhà, sẽ trở lại mời cô ăn khuya. 
       Rồi ông đem đến một con gà, cùng chủ nhà trọ của tôi, cắt tiết, làm món gà rang muối. Lần đầu trong đời, còn khá trẻ, được làm bạn nhậu với những người trong tuổi vai vế chú bác. Nói là bạn nhậu cho oai, chứ thật ra, tôi là dân phá mồi. Món ăn tuyệt vời, lần đầu tôi được vinh hạnh nếm qua.
       - Cô giáo biết hôn, tôi lấy hành, thoa lên tay, rồi đi vào chỗ gà ngủ, bợ nhẹ, không một tiếng động. Ngày mai, chắc bà vợ tôi la làng, mắng đứa ăn trộm, nhưng mà cô giáo đừng nói cho con gái tôi là con Hạnh, học trò của cô biết nghe. Biết được tôi sẽ không yên với bả đâu. Ông dặn cũng bằng thừa và tôi trở thành người đồng lõa, dù vô tình.
        Tỉnh Vĩnh Long, tôi cho là quá "nhỏ". Quận lỵ Tam Bình, nhỏ đến dường nào. Buổi chiều nơi đây buồn ơi là buồn, nhất là chuyến xe cuối rời bến, cuốn bụi đường, đưa khách rời xa chốn này. Ngoài những đêm dạy lớp Bình dân hoăc giúp các em ôn bài chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp. Tôi còn một học sinh tí hon, cháu của chủ nhà, em không có cơ hội đến trường. Hằng đêm, em quấn quýt bên tôi, ngày đến em phải ra đồng nhặt hạt lúa rơi. Tôi mua bút mực, dạy cho em những chữ đầu đời. Bên này tôi soạn bài, bên kia em học tập, lấp đầy một phần nào thời gian trống vắng.
         - Cô giáo thích ăn cái gì cô giáo? Em sẽ về nhà lấy cho cô giáo ăn.
Mẹ em là người bán quà vặt ngay cổng trường. Không ngăn được dòng lệ, tôi xoa lấy đầu em.
        - Cô chỉ thích ăn xoài sống thôi. Vì tôi biết mẹ em không bán loại xoài này.
        Tối hôm sau, em đến tìm tôi bằng nụ cười thật tươi trên môi, xoè bàn tay với một trái xoài nhỏ xíu, em cho biết đã đi nhặt lúc ban trưa. Em đã cho tôi tình người dân quê, như tình người phụ huynh nấu món gà rang muối. Tôi đã trở thành người dân Tam Bình từ lúc nào cũng không hay. Chiều chiều, đưa tầm mắt bên kia sông, ngồi nhìn lục bình lờ lững trôi theo con nước lớn ròng. Thả đôi chân trần nghịch nước, trên chiếc cầu đâm chùi xuống bãi. Với tay múc đầy lu nước, lóng phèn thật trong. Ðêm đêm đưa vào giấc ngủ bằng tiếng sóng vỗ nhẹ đôi bờ. Sáng tinh mơ, đánh thức bởi tiếng mái chèo, cùng tiếng người ơi ới cho phiên chợ mai. Nơi đây, thỉnh thoảng bay về những lá thư " gây nhớ" của đám học sinh Kỹ Thuật, đã xoa dịu phần nào nỗi đau.
        Ngày thêm khắc nghiệt bởi chế độ. Một sớm mờ sương, đầu mùa Phượng đơm hoa, trong sinh hoạt bình thường của quận lỵ, chuyến xe đò đầu tiên, đưa một người âm thầm bỏ trường lớp, bỏ đám học sinh và cả quê hương. Trôi theo một phương trời vô định, để định lấy đời mình trong may ít, rủi nhiều. Bằng con tàu mong manh, cuộc hải hành gian nan, vượt biển, chọn cái chết để tìm sự sống. Giữa biển cả mênh mông, biết đâu bờ bến, mới hiểu được thân phận bé nhỏ của con người khi đối đầu với hải tặc.
 
        "Rồi Em cũng đã rời xa, theo cánh chim tìm về xứ lạ. Ðời Em năm tháng cỏ hoa.. Rồi Em cũng đã bỏ đi, để lại từng vấn vương, mặn nồng là vết thương, ôm dấu yêu một lời chưa ngỏ. Bỏ con phố nhớ chân người.."*.* 
    Tôi đã về nơi xứ lạ, cây đời tỵ nạn, mọc tha hương trên đất người, một sớm mai cất đi kiến thức, một chiều đến quên hẳn bục giảng, tìm kế sinh nhai. Dòng đời cứ trôi, nghề làm đã thay. Thời gian chẳng đủ hiền hòa cho người tỵ nạn. Nhưng đành!
        Rồi một ngày hy vọng vươn lên, đã đến lúc tạm an cư trên xứ người, thế hệ cha ông lại muốn đưa con cháu tìm về cội nguồn dân tộc. Từ đó các lớp học Việt ngữ ra đời, bồi đắp lại mất mát bằng những tấm lòng "Yêu tiếng nước tôi" thiết tha. Tôi trở thành cô giáo dạy tiếng Việt. Chiều thứ Bảy, Sáng Chúa Nhật, tiếng trẻ ê, a đánh vần. Học sinh lớp 5 của tôi, gồm các em trình độ Tiểu học, ngồi cùng trình độ với anh chị sắp thi tốt nghiệp lớp 12. Thôi thì ... xoay bên này tôi như đứa bé lên 7-8, xoay bên kia là người vị thành niên và quay vào bảng đen phấn trắng thì mình đã qua tuổi chớm già. Nhớ lại ngày xưa thân ái của thời con gái đó... tôi đã chọn nghề không thích vì tiền. Giờ đây, tiền nào sánh bằng tình dành cho các em đang độ tuổi con cháu và quan trọng nào bằng tác phẩm vẽ lên "trang giấy trắng học sinh". Một thời làm học trò, tôi ưu ái cho thầy cô những phá phách. Một thời làm cô giáo, tôi đã nhận lại hết những gì mình đã trao đi. Hôm nao, tà áo trắng tinh, tôi theo chân cô giáo mình, bà Tổng Trưởng Xã Hội Trần Nguơn Phiêu, giả đò hỏi bài, để các bạn so cao thấp. Ngày nay các em thành thật hơn, chúng đi sát cạnh tôi:
        - Sao cô Phượng thấp quá vậy!?
       Hoặc đâu đó trong phần kết của bài luận văn" Cô Phượng hơi lùng lùng( lùng có g)". Mỗi tuần, ngồi với đám trẻ, chưa đầy 3 tiếng đồng hồ, nhưng cũng quên đi nhiều nỗi muộn phiền xa xứ, qua những điều có thật. Trong bài Học thuộc lòng của các em, bài "Mất Mẹ".

Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Ðể dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đau rồi
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi biết tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời


         Ðược các em giải thích:
         - Thưa cô, mồ côi là con nít mới đẻ. 

         - Chuông chùa nhẹ rơi rơi là cái chuông rớt từ từ xuống đất chớ không có rớt mạnh.
        Một học sinh, cũng là cháu gái gọi tôi bằng dì, trên đường về nhà sau giờ tan học, đã khoe với mẹ:
        - Hôm nay sáu Phượng, dạy bài thuộc lòng, con đã nhớ 4 câu đầu:

Năm xưa tôi CÒN nhỏ
Mẹ tôi MỚI ra đời.


Hoặc trong bài Tháng Năm Trời Mưa:

Tháng Năm trời mưa to
Ba dẫn con đi học

Cha con mình co ro
......

Ở đây đời lạ hoắc
Tay trắng còn trắng tay


        Câu Tay trắng còn trắng tay được các em giải thích là "tay không có đen". Hay trong bài Cơ thể người ta được các em mô tả: "Mặt người ta có trán ở phía trên, kế đến là hai mắt, mũi, miệng, bên dưới là càm, hai bên có hai tai, tai NGỒI ở dưới cái đầu. 
        Hoặc tìm từ phản nghĩa của SIÊNG NĂNG là KHÔNG NĂNG, CONG QUEO là THẲNG QUEO.
        Đặc biệt hơn, một học sinh người Úc, anh chàng trên 40 tuổi, học Việt Ngữ với dự định, một ngày nào, anh sẽ về Việt Nam, nối vòng tay bằng thiện tâm mình. Trong giờ học đàm thoại: 
        - Giáng sinh này, anh sẽ mua quà cho ai? Tôi hỏi.
        - Giáng sinh này, tôi sẽ mua quà cho con gái, CON mẹ.
        - Con mẹ là ai?
        - My mother.

(Lớp 10I trường Kỹ Thuật Vĩnh Long niên khóa 74 - 75)

        Tôi như người lái đò, đã 16 năm, mỗi năm tôi đã đưa bao khách sang sông. Những người khách, ra đi không trở lại, có trở lại tôi chẳng nhận ra. Những người khách qua đò không trả lấy một xu, nhưng đã để lại cho tôi cả trời thương nhớ. Khi cảm nhận được tấm lòng của các em, tôi chợt hiểu ra, dù muộn màng. 
        - Cô, cho em xuống lớp cô dạy, được không cô? Một em lớp 6, tha thiết chờ đợi tôi với đôi mắt rướm lệ.
        Không phải một, mà đến nhiều lần. Sau giờ học, em đến gặp tôi, trong ràn rụa nước mắt xin được xuống lớp.  Mặc dù, trong năm qua, em là học sinh xuất sắc, đứng nhất lớp 5A, trường Trương Vĩnh Ký, do tôi phụ trách. Khi liên lạc với cô giáo lớp 6, tôi vỡ lẽ ra, em học tệ, không làm bài tập đầy đủ. Lần sau khi em đến tìm tôi, cũng nước mắt lưng tròng, vẫn xin được ở lại lớp. Tôi hỏi em bây giờ đã là mấy giờ. 
        - Thưa cô đã 4 giờ chiều.
        - Em có thể kéo đồng hồ trở lại 1.30 trưa, lúc lớp học bắt đầu không?
        Em nhìn tôi, im lặng không trả lời. Tôi cho em biết, thời gian không đợi chờ em. Tôi vẫn bên em, cũng vẫn chăm sóc em như những ngày nào, qua sự thăm hỏi cô giáo lớp 6 về sự học tập của em. Em không thể ở mãi với tôi, mà cần tiếp tục vươn lên. Tiếp tục học, tiếp tục tiến bộ, mới thật sự học vì em và vì cô. Thầy trò tôi rời lớp học, tôi tiễn em ra sân, buổi học đã chấm dứt, nắng chiều còn đọng trên nhành cây, một phần lốm đốm rơi xuống di động trên sân trường, như sự di động không ngừng về liên tưởng đến thầy cô năm xưa của mình. Cùng với em đi xuống cầu thang, tôi còn nghe được bước chân em nằng nặng. Rồi kết quả năm ấy, em lại dẫn đầu trong các học sinh lớp 6. Những năm sau,"lịch sử" lại tái diễn. 
        Còn những trường hợp tương tự, nhưng tôi biết phải làm sao, giúp các em bớt ray rức, muộn phiền khi không được toại nguyện ở lại lớp để được học với tôi như ý mong muốn của các em. Tình các em dành cho tôi, không tự có. Tôi chẳng vững tay chèo, nếu tôi không được những người đưa đò năm xưa, lèo lái giỏi. Một điều không thể không nhắc đến còn một người lái đò khác rất đặc biệt, Người mà trong những buổi tu nghiệp đã hướng dẫn về tâm sinh lý thanh thiếu niên, giúp tôi có thêm "bản lãnh" đối đầu với những học sinh Việt sống ở hải ngoại, nơi mà nền giáo dục theo lối dân chủ, nơi là người Việt mà tiếng Việt không thuần là tiếng mẹ đẻ. Một thời tôi từng là khách sang đò, cũng không có xu nào để trả. Hôm nay, tôi sẽ gửi trả lại cho tất cả thầy cô lái đò đã đưa tôi sang sông, không bằng tiền, mà bằng những dòng chữ thân yêu của thế hệ sau. Chắc chắn rằng, thầy cô sẽ vui, vì thành quả tôi có ngày hôm nay, đây cũng chính là tiền thân thành quả của thầy cô ngày trước. Công lao của thầy cô thật cao vời, trong đó có những người thầy đã vĩnh viễn đi thật xa. Tiếc rằng các Thầy Cô ấy không đọc được lời trang trọng này. Thầy Cô tôi, không hẳn học cao, hiểu rộng, nói chẳng lưu loát, không chút dịu dàng, đôi lúc ngỡ như không tôn trọng vì tiếng xưng hô, mầy tao của Thầy. Nhưng Thầy Cô, đã là người dìu dắt học sinh chúng tôi, một thời làm bạn đồng hành, giúp chúng tôi hiểu biết, phát triển và vượt qua khó khăn. Tất cả là những vị thành tâm, thành ý, hoàn toàn hiến mình cho sự giáo dục.
        Ðêm nay, ngồi đây trước chồng tập vở của học sinh. Những ngày đầu năm, hương xuân còn quanh đây. Tôi sẽ làm gì? Tôi sẽ đọc lại bài Luận văn của Ánh Ngà, một học sinh lớp 5 trường chính mạch và cũng là học sinh lớp 5A trường Việt ngữ Trương Vĩnh Ký. Bài văn em nói về cảm nghĩ trong niên học 2007.

        "Trong niên học 2007 em học lớp 5A với cô Phượng. Em rất thích cô Phượng và lớp của em vì ai cũng tốt. Mỗi thứ Bảy em đi học tiếng Việt và gặp cô Phượng. Em thấy cô Phượng dạy rất hay. Khi cô đọc chính tả giọng nói của cô rất chậm rãi và rõ ràng. Khi cô nói chuyện với các em, cô Phượng nói rất dịu dàng và thân mật. Mỗi thứ Bảy cô cho em bài làm ở nhà, em rất thích làm bài ở nhà.
        Mỗi thứ Bảy em rất vui vì được gặp cô Phượng và bạn. Năm nay em rất thích vì cô Phượng dạy rất hay."


        Từ lúc đặt bút đến lúc nộp bài cho cô giáo, chỉ trong một thời gian ngắn, chưa đầy 1giờ 20 phút. Những điều em viết không thể tránh lỗi chính tả, không khỏi gây nhiều xúc động. Chẳng phải em nói tốt, nghĩ tốt về tôi. Ngay phần nhập đề: "Trong niên học 2007 em học lớp 5A với cô Phượng. Em rất thích cô Phương và lớp của em vì ai cũng tốt." Thật ra, lớp tôi có những anh chàng "không tốt", học lớp 9,10 của trường chính mạch, các em đến trường vì sự bắt buộc của cha mẹ, thường hay phá phách, làm phiền các bạn, mất thời gian giảng dạy. Tuy nhiên, có lẽ Ánh Ngà thấy được cái tốt của các em ấy, dù phá phách nhưng lúc nào cũng lễ phép và tôn trọng thầy cô. Một tấm lòng ẩn hiện độ lượng mà em đã nhìn tha nhân.

         Năm nay 2008, bài luận văn trong lần thi Học kỳ hai, viết về người mà các em thích nhất:

"Một người mà em thích nhất ở trường học tiếng Việt là cô Phượng. Em thích cô Phượng vì cô Phượng không la rầy nhiều. Cô dậy em đọc và viết. Em nghĩ cô Phượng là người tốt vì cô Phượng giải thích chữ cho học sinh mà không hiểu. Cô Phượng cũng day em bài Tôi biết Lễ Phép và Thành Thật, em luôn luôn nhớ mấy chữ đó. Lúc nào cô Phượng thích chơi và kể chuyện cho các học sinh em thích nghe câu chuyện của đời sống của cô. Khi lớn lên em hy vọng em day con em lời cô Phượng chỉ em. Em muốn ở với cô Phượng tới lúc em song học tiếng Việt."


        Trần Thúy Thảo, người viết đoạn Văn trên, chỉ là học sinh lớp 5 của trường chính mạch, em đã sâu sắc nhận ra hai điều tôi đã trao truyền là, Lễ phép - Thành thật và em hy vọng sẽ dạy lại cho con mình sau này. Những bài luận của các em, chính là nguồn cảm hứng, thành hình bài Văn của cô giáo Phượng. Đêm nay, ngồi đây, những giọt lệ âm thầm của cô giáo ô đen rơi... rơi theo tiếng mưa ngoài trời. Lạ! Xuân mà mưa vẫn rơi. Tiếng mưa đêm, những hạt nước ngọc ngà, đang rưới mát cho phương Nam - Úc châu, một nơi hạn hán đang đe dọa theo từng ngày tháng. Hạt mưa rơi - hòa lẫn niềm vui, trong một mùa xuân thật đặc biệt, bên bài Luận văn của Ánh Ngà, Thúy Thảo. Trong giây phút này, tôi thèm cởi bỏ lớp áo cô giáo, khoác lên mình tà áo trắng tinh nguyên thời cắp sách, làm học trò.
        Ðêm nay, cô giáo sẽ trở về thời cắp sách, như một lần đầu tiên trong lớp học tu nghiệp dành cho giáo chức tại Úc châu. Hơn mấy mươi năm, khi được êm đềm ngồi trong lớp, như ngồi lại trong khung cảnh cũ, dù người xưa không còn. Bằng tiếng CON, tôi xưng hô với Người giảng thuyết, Người có tuổi đời khá trẻ so với kinh nghiệm tâm lý già dặn đã có:
        - Thưa thầy, hôm nay được ngồi trong lớp học, sau mấy mươi năm, CON muốn tìm về dĩ vãng thời học trò. 
        - À ra vậy!
        - CON nói đi, thầy sẵn sàng nghe.

        Tôi mơ được trở lại thời cắp sách, khoác tà áo trắng tinh của hôm nao, quay ngược thời gian, dệt một giấc mộng.
 

Kim Phượng
(Úc Châu đêm xuân Mậu Tý 2008)
* Bài thơ học trò chép tay cho cô giáo - không rõ tác giả.
** Nhạc phẩm Lời Ru Mời Em Trở Lại của Linh Mục Đinh Thanh Bình


Đưa Người



Đưa người về tìm quên trong men say
Rủ sạch yêu thương chẳng nợ tháng ngày
Mai kia xa cách nơi phương trời ấy
Có bao giờ mi nhớ đọng giọt cay

Đêm cuối cùng tay trong tay nhau
Biết nói chi đây vơi hết nỗi sầu
Tròn ước mơ đầu gì đâu giấc mộng
Sống cạnh bên chồng em có vui không

Trời đã sang đông cõi lòng tê tái
Bờ vai thêm gầy tay bế con thơ
Đôi mắt bơ vơ giữa dòng xuôi ngược
Em tôi ơi còn được mất những gì!?

Tuổi xuân thì đường đi em đánh mất!


Kim Phượng


Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

Thơ Tranh: Hương Xưa



Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Suối Dâu


Thơ Tranh: Phượng Sái Mùa



Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh



Tứ Đại Nương



Ngộ duyên thơ thẩn trên đường đi
Gặp gỡ văn chương chẳng ước gì
Nhỏ nhất Kim Oanh như hoàng yến
Kim Quang – Kim Phượng với Kim Chi.

Cô bé Kim Oanh còn trẻ tuổi
Thi văn – vi tính – đều song toàn
Thơ tranh hình ảnh : mây, trời, suối
Ngoan đạo – dịu hiền mặt trái xoan.

Kim Phượng giáo sư Nguyễn trường Tộ
Tóc xoăn – dáng đẹp – sống đơn sơ
Lại thêm góp nhặt – đời trên phố
Nhỏ xuống làm duyên - chút ý thơ.

Kim Chi cô giáo Pétrus Ký
Danh trấn – tài cao của mái trường
Có dịp Cần Thơ cô đi xuống
Trao về bạn cũ chút tình thương.

Kim Quang – chị cả - cô hiệu trưởng
Nghiêm khắc – răn đe – tệ nhất làng
Từ thuở đổi đời – cô mất chức
Chay trường – an phận – chẳng cao sang.

Tôi được kết giao …đoàn hiệp nữ
Đêm về sàng lọc… bốn nàng Kim
Cảm ơn chữ nghĩa thêm tình bạn
Vạn tấm lòng son – gởi cánh chim.

…Nhị nương thường gặp – hai sương khói:
Trưa – sáng – chiều – hôm – mỏi mắt tìm !

Dương Hồng Thủy
( 14/11/2013 )



Kim Thủy Hổ Tương?!



Tứ Kim rất nể Dương Hồng Thủy
Quân y nhưng rất thích vui chơi
Tích đức từ bi giàu thiện ý
Nhiệt tâm cứu giúp những mảnh đời

Là dân châm chích, giỏi miệng mồm
Ở đâu có mặt.. nghe rất sôm
Tuổi trẻ tiếng vang người phong nhã
Ra ngoài rảo mắt thích ngắm hoa

Thấy vậy lúc già lắm mê say
Thả hồn sớm tối cứ miệt mài
Sáng tác thăng hoa vườn thi phú
Tình tràn trong mộng trắng đường tu

Dương Hồng Thủy tên nghe rất sợ
Khắp nước dân tình  nghèo xác xơ 
Bão lũ nhiều nơi còn tay trắng 
Lang thang trong cảnh khổ mịt mờ

Kim sinh Thủy, Tứ nương không ngán
Không có Kim, Hồng Thủy sẽ tan

Kim Quang

* * *

Ba chị Kim ơi.
Đọc bài thơ của anh Thủy và của chị Kim Quang, em vui lây ....
Cho em ké đôi vòng gửi một Kim....Tây nha ba chị

Nhất Kim....Tây

Ngoài ra còn có Nhất Kim Tây
Hồng Thủy luân lưu khắp đó đây
Tấm lòng bao la như biển rộng
Tương đồng thi phú thỏa trời mây

Kim Oanh

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

Màu Hoa Tím



Nhang  lòng thắp một nén thương
Sắc màu tim tím ngát hương hoa đời
Em như tơ trắng bên trời
Mai đây phiêu bạt - Chơi vơi phương nào?

Màu hoa tim tím gửi trao
Khắc sâu tình bạn theo vào thiên thu
Sương mai phủ kín mù mù
Oằn đau nỗi nhớ cho dù cách xa

Màu hoa tim tím đậm đà
Hoa tình trọn nghĩa -  Xót xa kiếp người
Màu hoa tim tím xinh tươi
Em ơi! Giữ lấy nụ cười hôm nay

Hoa lòng tim tím chẳng phai
Tiển nhau một đoạn đường dài này thôi
Màu hoa tim tím trong tôi
Ngút ngàn tiếc nhớ - Đành thôi giã từ

Kim Phượng


Thơ Tranh: Loài Hoa E Thẹn



Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh; Kim Oanh


Chiếc Cầu Bắc Nhịp Tình Yêu

    
    ( Riêng tặng một người )

Thuở còn cắp sách đến trường
Giờ thi vạn vật vấn vương một người 

Mắt ai rạng nét vui tươi 
Thấy trong tập nhỏ có người vẽ thay

Hình thú anh vẽ thật hay 

Còn em anh vẽ ở ngay tim mình 
Nên thơ tình tuổi học sinh 
Phượng hồng phản sắc lung linh má nàng

Bỗng! Ve nhập cuộc kêu vang 

Nồng nàn bài hát sang ngang - Dứt tình . . . 
Chiếc cầu mất ván thiếu đinh 
Người yêu năm cũ “dìa dinh” lâu rồi

Tim đau gỏ nhịp bồi hồi 

Người thương - người nhớ nay ngồi xe hoa 
Kỷ niệm ngày ấy đã xa 
Không quên gửi lại cho ta thiệp hồng

Dòng sông hai bận lớn ròng 

Chiếc cầu Thiềng Đức long đinh thêm nhiều 
Lục bình lờ lững quạnh hiu 
Nhịp cầu ghi khắc bao nhiêu là tình

Hôm nao tà áo trắng tinh 

Em đi giết chết mối tình học sinh 
Ngày xưa như bóng với hình 
Người đi còn lại khối tình chàng Trương

Kim Phượng


Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013

Sáng Như Gương

Thế Hệ Thứ Ba của Cựu Học Sinh Nguyễn Trường Tộ Vĩnh Long
Bé có một nét dễ thương và mặt sáng ...như gương.






Kim Phượng


Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

Tiễn Biệt Nhà Văn Anh Vân

       

Việt Nam bây giờ đang là mùa Hạ.
      Những cánh Hoa Học Trò tô điểm, chen lá trên cành, như để đón và đưa một Người về lại với quê hương. Cùng tiễn đưa Anh là tiếng ve sầu tấu khúc chia ly.    
       Sinh ly có thể tránh, nhưng tử biệt sao khác được lẽ thường!

      Anh Quách Ngọc Vân với bút hiệu Anh Vân, (Quách Tố Vương), chào đời ngày 24 tháng 4 năm 1938, tại Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
      Anh đã miên viễn ra đi vào ngày 31.07.2010, lúc 09:57 sáng tại California, Hoa Kỳ.

      Như một vì sao chợt tắt trên vòm trời Việt Nam!
      Việt Nam, nơi Anh được sinh ra, khổ công gìn giữ, nhưng phải lìa xa trong bức tử. Sự ra đi của Anh là một tiếc nuối ngẩn ngơ cho riêng “khung trời” Tống Phước Hiệp và có lẽ cho cả những ai cùng đồng hành với Anh trên bước đường chinh chiến.
Sự mầu nhiệm của cuộc sống, phải chăng được tính bằng những cơ duyên gặp gỡ và những mệnh số được gắn bó trong đời người?
      Anh từng là giáo sinh của trường Sư Phạm Vĩnh Long. Anh đã dìu dắt bao đứa trẻ, những hành trang được Anh trao ban để vào đời. Rồi cũng chính Anh, người cựu sĩ quan Sư Đoàn 9 Bộ Binh kiêu hùng, một lần nữa, quay trở về đất Vĩnh, căn cứ đóng quân tại Long Hồ, nguyện làm người giữ an bình cho lớp người trẻ cắp sách đến trường. Ngày tang thương đến, ngậm ngùi xếp chinh y nhưng ngòi bút anh vẫn kiên cường đã mang cả hoa trái văn chương đến cùng độc giả và tấm lòng thiết tha đến mọi người Việt Nam, nhất là cựu học sinh và người Vĩnh Long.

      Anh đã đến Trang Nhà Tống Phước Hiệp.com bằng sự chia xẻ, đóng góp nhiệt tình không mệt mỏi với những “đứa con tinh thần” của Anh, cùng sự mời  gọi hợp tác của các cây bút vang tiếng, tạo nên Trang nhà có được như ngày hôm nay.

      Một điều rất chắc chắn, không có Anh trang Tống Phước Hiệp.com khó đi vào lòng người nơi quê nhà cũng như phương trời hải ngoại.
      Một thời để yêu! Anh đã hết lòng yêu thương dìu dắt. Anh đã hy sinh thời tuổi trẻ, Anh dấn thân cho người, xả thân cho đời.
       Một thời để chết, chỉ riêng mình Anh với những cơn đau tột cùng.

      Anh bước vào đời khi đất trời chuyển Hạ và ra khỏi cuộc đời cũng vào lúc phượng trổ hoa. Phải chăng    Anh đã để lại cho đời sự sắc sảo, rực rỡ của một loài hoa mang tên Hoa Học Trò.
      Hương linh Anh hòa vào âm ba rỉ rả của tiếng ve sầu, tiếc thương về một quê hương đã mất. Một thiên đường Anh nằm xuống mãi mãi là khuôn viên trường Tống Phước Hiệp.
      Anh là một hình bóng đậm màu! Một Người Anh đáng kính!

      Thắp nén hương lòng nguyện cầu cho Hương Linh Anh Vân, Quách Tố Vương được sớm hưởng Nhan Thánh Chúa và thành kính chia sẻ niềm đau, sự mất mát tột cùng với gia quyến.

(Giọng đọc Dương Thượng Trúc)
      Thành Kính Phân Ưu.
      Kim Phượng
      Australia 31-7-2010


Đêm Trăn Trở



Đêm trở giấc buồn đâu đến vội
Trăn trở hoài trên mãnh gối xưa
Cuộn trong chăn - Nằm lắng tiếng mưa
Dĩ vãng! Chợt âm thầm trở lại

Đêm khoắc khoải ước mong đến vội
Trăn trở hoài trên nỗi khát khao
Cuộn trong chăn - Ray rứt dạt dào
Hiện tại! Ôi cả đời câm nín

Đêm dằng dặc đêm đen đến vội
Trăn trở hoài trên nỗi đam mê
Cuộn trong chăn - Đếm nỗi ê chề
Tương lai hỡi ! Suốt đời mộng mị

Đêm trở giấc giật mình khóc vội
Trăn trở hoài mà tội con tim
Cuộn trong chăn - Vỗ giấc ngủ hiền
Đêm trăn trở một đời trăn trở

Kim Phượng


Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013

Con Tắc Kè


       Giồng Ké, nơi tôi sống và lớn lên, là một thị xã của tỉnh Vĩnh Long, nhưng sau đó lại trực thuộc địa phận Vĩnh Bình hay còn gọi tên cũ là Trà Vinh.

       Dù tôi sống trong loạn lạc, đêm đêm phập phòng bên canh mỏ liên hồi của du kích quân, giật mình thức giấc bởi tiếng đại bác, hồi họp lo âu sống còn, giữa lằn ranh giao tranh của hai phe. Nhưng tuổi thơ của tôi trở lại hồn nhiên, được trải dài trên con đường từ nhà đến trường và tôi vẫn…tung tăng, đầy vô tư trong phút giây trộm hoa, cắp quả, từ những gia cư sống lân cận quanh khu vực nhà trường. Bấy giờ nếu có ai hỏi: “Tuổi trẻ sợ gì nhất ”? Có lẽ bọn học trò chúng tôi có cùng một câu trả lời : “Sợ bị khảo bài nhất mà thôi”.

       Tuổi hái hoa bắt bướm qua nhanh. Tôi vào trung học, một cực hình lớn nhất đối với tôi lúc đó là phải xa nhà để tiếp tục việc học vấn.
       Trong kỳ thi Đệ thất, trường tiểu học Giồng Ké chỉ vỏn vẹn hai thí sinh trúng tuyển vào trường công lập Vĩnh Bình, trong đó có tôi. Như đã nói, vì Giồng Ké thuộc tỉnh Vĩnh Bình nên tôi phải ở trọ, trong khi các anh chị tôi đều theo học tại Vĩnh Long. Tôi vẫn nhớ, hôm rời nhà, hành trang là chiếc va li nhỏ. Má tôi chu đáo sắp xếp vào đó những thứ cần dùng cho người con gái sắp sửa bước vào tuổi dậy thì cùng những lời dặn dò cho đứa con phải đi xa.

       Tôi theo chân ba và được gởi gắm cho một người cô bà con. Cha cô là em ruột của ông nội tôi, một gia đình giàu có, đất ruộng cò bay thẳng cánh, nên tôi chẳng lạ gì khi đặt chân lên ngưỡng cửa nhà cô. Ngôi nhà ngói đồ sộ, nền đúc cao, tọa lạc trên một vuông đất có nhiều loại cây ăn trái, có rào bao quanh với cổng khoá, then gài. Con cháu cô đều đi làm, đi học. Tất cả ở Sài Gòn, trong gia đình chỉ còn lại cô dượng và bà lão giúp việc. Nhà to thế ấy, người trong nhà lớn tuổi chừng ấy, nên việc có thêm một đứa trẻ như tôi đến chung sống, âu đó là niềm vui, nên mọi người đều hân hoan đón nhận. Nhà giàu sang, rộng thênh thang nên có sự phân chia rạch ròi “nhà trên _ nhà dưới”, là điều hẳn nhiên. Về đêm, sự phân chia rõ ràng hơn bằng những khuôn cửa có khoá cài an toàn.

       Phòng ngủ của con cháu cô gần như niêm phong, chỉ mở ra vào dịp Tết hoặc hè, khi họ về thăm gia đình. Tôi đến đây, như một “thượng khách” nên được yêu thương và chăm sóc kỹ. Bởi thế tôi “ phải ” ở nhà trên cùng với cô dượng. Nơi tôi học hành và nghỉ ngơi là một bộ ván gỏ, nằm cạnh và đối diện một dãy với bốn bàn thờ lớn cùng tám tấm liễn dài, treo dọc theo những thân cột to. Tất cả các thứ trên đều cẩn xa cừ, được đánh bóng nên sáng loáng và ánh lên đủ màu trông thật đẹp mắt. Đêm đầu tiên đến đây, tôi không tài nào chợp mắt và… thút thít khóc. Bộ ván gỏ nơi tôi nằm, mát lạnh, rất lý tưởng với khí hậu nơi quê nhà. Nhưng sự tủi thân, nỗi cô đơn của đứa bé vừa xa gia đình, vừa sợ ma, sợ những nén hương lập loè thắp trên bàn thờ cùng tiếng kêu của con tắc kè, làm tôi ớn lạnh. Lưng tôi lạnh, hơn cả cái lạnh của tấm phản gỗ.

       Nỗi sợ trong tôi càng gia tăng vào những khi cô dượng về Sài Gòn thăm con cháu. Sự vắng mặt đôi khi kéo dài đến cả tháng trời. Những hôm như thế, bà lão giúp việc chăm sóc tôi kỹ hơn. Đêm về, sợ tôi mê ăn mê ngủ nên bà khoá trái cánh cửa phân biệt “nhà trên _ nhà dưới” lại. Bấy giờ, tôi sợ con tắc kè đang sống bám trên tường vôi hơn cả con ma, sợ đôi mắt sáng quắc, sợ tiếng kêu “ tắc kè _ tắc kè ”. Nghĩ đến lớp da sần sùi của loài bò sát này, nhở nó “sẩy chân” té nhào thì còn gì là tôi. Bởi thế, vừa chập choạng tối là tôi vội giăng mùng để tránh tai nạn rơi thình lình theo trí tưởng tượng và tuổi thơ của tôi đi vào mộng mị… bằng tủi hờn, bằng ràn rụa nước mắt, bằng lo âu sợ hãi. Tôi cảm nghĩ, mình như hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài. Cực hình này so ra khủng khiếp hơn cả lần đầu xa nhà.

       Sáng hôm sau tôi vào lớp học với cặp mắt sưng vù. Cô bạn ngồi bên cạnh hỏi vì sao, tôi thật tình kể hết chuyện con tắc kè, sợ tiếng kêu, sợ nó sẩy chân…
       Cô nhìn tôi cười ngất:
      - Bạn khờ quá ! Nó linh lắm đó, nhất là vào mùa thi.
        Bạn tôi kể rằng vào mùa thi, mỗi lần nghe nó kêu thì bắt đầu đếm là “ đậu hoặc rớt ”, và tiếng cuối cùng ngừng ở chữ nào, thì kết quả linh ứng vào chữ đó. Tối đêm ấy, tôi bớt sợ hơn, có phần háo hức là đàng khác. Vâng tôi chờ, tôi đợi… tiếng kêu con tắc kè và dù không là mùa thi nhưng tôi vẫn đếm thử…, không phải bằng tiếng “đậu _ rớt” mà là “bị khảo bài _ không bị khảo bài”. Và kể từ lúc đó tôi học chí tử, nhất là tiếng kêu dừng lại“ bị khảo bài”.

Sống giữa tường vôi đã thấy buồn
Kêu chi não nuột? Tắc kè thương!
Đêm đêm phá giấc cô trò nhỏ
Thức dậy ôn bài lúc giữa đêm.

      Tuổi trẻ ngày nay nhiều vòi vĩnh, lắm thú vui, đủ trò chơi, nào sinh nhật, xi nê, ti vi…Còn tuổi trẻ của tôi, sống, lớn lên, làm bạn với tiếng kêu của tắc kè…Mùa thi, mùa của mong đợi, vì tôi đam mê tiếng kêu này mất rồi! Mùa thi, mùa của mệt nhọc, buồn ngủ dù gà gật cách mấy mà tiếng kêu cuối đếm đúng chữ rớt, tôi vội bật dậy ôn bài.

Mái ngói tường vôi cao lêu nghêu
Linh thiêng hồi họp dõi tiếng kêu
Phập phồng thao thức lần tiếng đếm
“Đậu _ Rớt” _ Tắc kè chớ cợt trêu!

       Con tắc kè, người bạn có lớp da trông gớm ghiếc, nhưng tôi không còn sợ nữa, trái lại tôi cảm thấy nó gần gũi, vừa hiền lành lại linh thiêng. Mà lúc đó tôi làm gì biết được tại sao nó linh hiển như thế. Mà biết để làm gì, khi cuối năm Đệ thất, tay nắm được phần thưởng, trong buổi lễ do nhà trường tổ chức tại rạp xi nê Vĩnh Bình .
       Sau này tôi còn biết thêm về con tắc kè qua bài học vạn vật, cô giáo cho biết nó là một loại bò sát, da tuy sần sùi, nhưng điều kỳ diệu là màu luôn thay đổi theo môi trường sống. Đấy là đặc điểm về khả năng sinh tồn cho chính bản thân của nó.

Làm thân bò sát: “Tắc kè hoa”
Vì lẽ sinh tồn đổi màu da

        Mươi mấy năm qua, tôi xa trường, chưa một lần trở lại căn nhà nền đúc ấy. Còn con tắc kè năm xưa? Có lẽ không ai trả lời cho câu hỏi của tôi… Theo dòng thời gian tôi đã hoàn toàn quên hẳn nó, người bạn một thời mà tôi đã tin tưởng vào tiếng kêu linh thiêng. Cho đến khi…

Mươi mấy năm qua xa mái trường
Xa rồi tiếng gọi tắc kè thương
Ai xui gợi nhớ ngày xưa cũ
Quay quắt trong tôi_ Đến lạ thường!

       Thời gian định cư khá lâu, hương vị tỵ nạn vẫn còn đó, nhưng cái “tâm trạng người mới rời quê hương, vừa xa trại tị nạn” lại nhiều đổi thay. Một số người đã để quên quá khứ đàng sau bờ đại dương, chẳng buồn nhớ lại phút giây nơi trại tỵ nạn năm nào. Bước vào hiện tại bằng đầy đủ tiện nghi, bằng vội vã với thời gian trong công việc, bằng lao mình vào sự xô bồ, thừa mứa, bằng thú vui thâu đêm suốt sáng, bằng đặt nặng kim tiền và rồi không tránh khỏi,“giá trị tình cảm giữa người và người” nhẹ tênh dần theo năm tháng.

       Riêng tôi? Tâm hồn này? Tôi không bắt kịp với nhịp bánh xe thời gian, với thay đổi loạn cuồng của môi trường sống chung quanh và tôi… đã quỵ ngã. Tôi làm gì bây giờ đây? Trở lại là người tỵ nạn mới vừa định cư, tôi bắt đầu làm lại cuộc đời ư? Không, thật ra, tôi còn tệ hơn nữa, vì lý tưởng chọn cái chết để tìm sự sống bên bến bờ tự do thật sự đã tiêu ma rồi. Tôi đang tự đi tìm cái chết đây mà. Trong đau khổ và tuyệt vọng cùng cực, tôi còn biết gì, còn nghĩ gì về : “Thịt da này do cha mẹ cưu mang, trí óc này được thầy cô hướng dẫn. Cơm cha _ Áo mẹ _Ơn thầy”. Tôi hiện hữu, nhưng đời làm sự sống của tôi mất dần ý nghĩa, vốn liếng cuối cùng của một con người là niềm tin cũng đã mất, hoàn toàn mất. Tôi như con tàu trong chuyến hải hành vô định, lênh đênh trên biển đời mênh mông, đen tối, nào tìm thấy đâu là ngọn hải đăng hầu được dẫn lối đưa đường. Bão tố ùa đến, tơi bời…như tôi đã hứng chịu trận bão năm nào, trong 9 ngày 9 đêm lênh đênh từ Việt Nam đến Mã Lai, trong lần vượt biển. Nhưng đó là 9 ngày đêm tuyệt vọng trong niềm hy vọng tìm đến bến bờ tự do. Giờ đây, trên mảnh đất tự do này tôi lại “tự do”… sống dưới hố sâu vực thẳm.


       Đang ngụp lặn trong sóng người vô tình, trong sóng tình nghiệt ngã, rồi như một phép lạ tôi bám được chiếc phao nổi. Như một phép lạ, tôi được giựt dậy từ cái hố sâu thăm thẳm kia. Người làm phép lạ này, thật ra chẳng có chi lạ. Đây chính là vị tư vấn về gia đình, đã giúp tôi đứng lên và đưa tôi trở lại cuộc đời. Trong thế gian này, nếu quả thật có sự luân hồi, xin thưa rằng tôi cảm nghiệm được, chính tôi đã luân hồi ngay trong kiếp này mà không phải trải qua nhiều đời khác. Trong xã hội làm việc vì nhiệm vụ này, thật may mắm cho tôi, còn gặp được con người “ vì nhiệm vụ nhưng khác nhau ở tấm lòng”. Tấm lòng của:
Người xa mà ngỡ như gần
       Trong khi:
Người thương lại chẳng nợ nần chi nhau

        Sau lần sống sót này, tôi biết chắc chắn một điều: “Tôi đang được tồn tại đúng nghĩa, bởi thế tôi cần biết nâng niu sự sống của mình”. Chính sự thay đổi lớn lao này mà hình ảnh con tắc kè năm xưa với sự huyền diệu về màu da, lại ào ạt trở về… Đã từ lâu tôi biết, ý nghĩ về “đậu_rớt” qua tiếng kêu của con tắc kè là một suy nghĩ ấu trỉ. Tuy nhiên nhờ tin tưởng vào sự hiển linh trong thời thơ ấu ấy, nó đã giúp tôi nhẫn nại ôn bài, tiếng kêu chấm dứt là “rớt” càng nhiều bao nhiêu là tôi chuyên tâm bấy nhiêu và kết quả “linh ứng” như mong đợi là điều tất nhiên. Do bởi tấm lòng của người đã đưa tôi trở lại cuộc đời, mà tôi hồi tưởng lại màu da con tắc kè. Dù những tháng năm dài oằn mình trong chiếc kén khổ đau, vị tư vấn giàu lòng mà tôi đang nhắc đến, không vội vã, người đã nhẫn nại, đợi chờ, trông chừng, hướng dẫn để tôi tự đủ sức, tự nhoài mình ra từ một chiếc lỗ thật bé của chiếc kén khổ đau kia. Vị tư vấn về gia đình này tuyệt vời trong sự thay đổi màu da “nhẫn nại lắng nghe”, màu da “chia sẻ cảm thông”, màu da “nhân ái độ lượng”. Bằng tấm lòng đã:

Hiện thân làm tắc kè hoa
Giàu lòng nhân ái đổi màu da

        Đổi màu da để thích nghi với mọi tình huống, mỗi đoạn đường đau khổ của môi trường “chán nản”, “bất mãn ”, “hằn học”, “oán hận”, “căm hờn”, “thất thời”, “mặc cảm”, “tự ti”, trong nỗi bất hạnh của con người tôi.

       Chính sự thay đổi màu da “lắng nghe” của vị này, đã ảnh hưởng ít nhiều, kéo theo sự thay đổi màu da “thái độ” của bản thân tôi. Tôi biết chấp nhận, nhìn vào thực tại, bước thẳng vào khổ đau. Để rồi hy vọng trong tôi vươn lên. Niềm tin được bồi đắp. Đời sống thăng hoa, tôi biết hướng mình đi, việc mình làm, định rõ mục đích tiến đến. Và điều quan trọng, tôi không còn muốn mình là ai nữa mà thật sự biết được “tôi là ai”, trong cách sống đích thực của một con người. Người giúp tôi biết chọn lựa bộ áo nhân cách nào, để biết nâng cao phẩm giá con người mình. Sự chuyên tâm để đạt đến kết quả như ý của cô học sinh nhỏ bé năm nào cũng là sự chuyên tâm của tôi ngày hôm nay. Giờ đây tôi nhìn đời lạc quan, bao dung hơn, dù rằng hiện tại, trong đôi mắt, ngấn lệ vẫn còn long lanh nhưng đã tiềm ẩn được nụ cười.

       Khi tôi biết chắc chắn, mình không sợ cái khổ nữa, chính là lúc tôi nhận ra, vị tư vấn đã dùng nhiểm sắc thể “tình yêu tha nhân” tái tạo nên tôi, một con tắc kè hoa biết thay đổi màu da “thái độ”, để tồn tại trước những nghiệt ngã của cuộc đời, khoát thêm lên người màu da “nhẫn nại lắng nghe” của vị ân nhân. Với tâm hồn được hoán cải, dù cằn cổi vẫn nở hoa nhân ái, trổ trái độ lượng.

       Và thời gian…
       Thời gian…
        Cánh cửa hạnh phúc đời mình đã khép lại … ! Hôm nay đây, trong tôi một cánh cửa hạnh phúc khác lại rộng mở. Và chính tôi, vâng, chính tôi phải can đảm tự mở cánh cửa này bằng sức mạnh của cánh tay “lấy sự bất hạnh của đời mình mà mang đến niềm vui cho kẻ không may khác”.
       Vì quanh đây, trong con đường hầm khổ đau mà tôi đang lần mò đi ra, thì còn nhiều, rất nhiều người khác cũng đang lầm lũi bước vào…


Kim Phượng

(Úc Châu_Cuối thu 24/6/2005)