Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2014

Tình Xuân - Thơ Kim Phượng - Thực Hiện Mũ Nâu 11

Chúc Mừng Năm Mới chị Kim Phượng
xin gửi kèm món quà đầu Xuân.
Dương Thượng Trúc


Thơ: Kim Phượng
Nhạc Nền: Gái Xuân - Phạm Duy
Thực Hiện: Mũ Nâu 11

Xuân Ly Hương



Đây khách ly hương vạn dặm trường
Quê nhà cách trở nhớ thương thương
Mùa xuân mường tượng qua dư ảnh
Lối cũ thềm xưa chạnh vấn vương

Hương cốm ngây ngây ửng má đào
Hồn xuân dào dạt nắng xôn xao
Nụ hồng trao gửi mong chi nữa
Lần lựa qua rồi giậu chắn thưa

Người ấy quên chưa xuân đã về
Loan kề má tựa nhớ chi nhau
Khổ đau ôm trọn riêng mình biết
Lòng khách ly hương cách biệt lời

Kim Phượng


Anh Hưng Chúc Mừng Năm Mới 2014


Đặng Quốc Hưng 


Thứ Năm, 30 tháng 1, 2014

Huỳnh Hữu Đức Chúc Xuân Giáp Ngọ



Huỳnh Hữu Đức

Nguyễn Khắc Thiệu Chúc Tết 2014


Cất Giùm Chiều Ba Mươi




Vĩnh Long cất giùm thời con gái
Mùa xuân nào trộm hái anh đào
Đưa tay với với lấy cành cao
Hương chạm ngạt ngào đôi vai nhỏ

Từng cánh mỏng hồng chao trong gió
Chuyện chúng mình kể nhỏ đủ nghe
Mắt tròn xoe môi cười rất khẽ
Lời thề yêu nhe nhẹ ngượng ngùng

Chiều ba mươi hồn rong đây đó
Về phương xa thời trộm hái hoa
Nơi người em xưa tuổi ngọc ngà
Lúc ngổ ngáo cười khoe răng khểnh

Chiều ba mươi xứ người vương nắng
Đong đầy niềm cay đắng trong tim
Vờ ngủ im nhịp thở ngoan hiền
Thầm nuối tiếc tiếng lời chưa ngỏ

Kim Phượng

Bài Cảm Tác: Cất Giùm Chiều Ba Mươi



 (Từ Cất Giùm Chiều Ba Mươi,Kim Phượng)  

Cất giùm anh một thời con gái
Mái trường xưa tuổi trẻ má đào
Tình đôi ta ước mộng vươn cao
Đời ướp mật, hoa đầy tay nhỏ.

Chiều giáp Tết xuân về trong gió
Lần chia tay, em hỡi có nghe
Ta chúc nhau lời lẽ e dè
Khi anh tặng chậu hoa hồng đỏ.

Em muôn thuở tóc huyền còn đó
Môi má xinh hơn vạn loài hoa
Áo trắng tình gói tuổi ngọc ngà
Chim vẫn hát tiếng em văng vẳng.

Ba mươi, trời buồn không chút nắng
Tết tha phương cay đắng đầy tim
Thương tặng em nỗi nhớ thật hiền
Cất giùm anh lời tình chưa ngỏ


Phạm Tương Như
Houston 13/02 /10

Quốc Việt Chúc Xuân Giáp Ngọ


Quốc Việt

Xin Đừng Cất Đậy Chiều Ba Mươi




(Cảm bài Cất Giùm Chiều Ba Mươi 
       của Kim Phượng và Phạm Tương Như )

Ai nỡ cất đi thời con gái
Dưới mái trường áo trắng trinh nguyên
Bốn mùa hoa chuyển dáng nàng Tiên
Ngoan hiền lắm! Làm tim ngây dại

Chiều ba mươi phải nhờ cơn gió
Đưa em về Xuân mới có nghe
Giấu không gian thời tiết khắt khe
Hoa ba mươi màu phơi muôn vẽ

Cung thì thầm vượt bổng xẻ mây
Long lanh sắc chim bầy xa xứ
Chín từng không lồng lộng lời dư
Ba mươi mãi như từ thiên cổ

Cây tự tình trăm năm ngổ ngáo
Máu nhạc lòng trôi vạt trời Tây
Cứ yêu nhau ươm hạt sum vầy
Cớ sự gì cất đậy ba mươi

Thế gian ơi! Tận hưởng nụ cười

Vĩnh Long 15-2-2010
Lê Kim Hiệp

Thứ Tư, 29 tháng 1, 2014

Cánh Thiệp Đầu Xuân Gợi Nhớ

      Xuân Nhâm Thìn, một mùa xuân ly hương tin yêu và ý vị cho một đời người xa xứ! 
      Từ bên kia bờ đại dương, “cánh én” bay về…báo tin. Đó là một tấm thiệp mừng xuân. Thật xúc động và tôi xem như món quà nhận được trong Năm Mới. Phải chăng bưu điện Bến Tre thay gió đưa hương xuân quê nhà sang tận đây, lục địa Úc châu. Tấm thiệp đã mang niềm vui với những lời chúc lành tới, từ một người bạn. Người bạn chỉ một lần gặp gỡ, trong chuyến họp bạn thường lệ hàng năm, tổ chức vào Chúa Nhật, tuần lễ cuối tháng Mười Một. Đây là lần họp thứ 15, tại Bến Tre, của các Cựu Giáo sinh Lớp 6 Khóa 8, Trường Sư Phạm Vĩnh Long. Người bạn mà tôi muốn nhắc đến là anh Nguyễn Hữu Tài, sinh quán tại Bến Tre.


      Buổi sáng hôm ấy, Chúa Nhật 27.11.2011, chuyến xe buýt 30 chỗ ngồi, đậu trên lề đường ngay Kho Bạc Nhà Nước Vĩnh Long. Theo dự định, mọi người sẽ tề tựu nơi đó và sẽ khởi hành lúc 6:30 sáng. Tuy nhiên, vì trở ngại vào giờ chót, người tổ chức đến trể, nên 7 giờ xe mới lăn bánh. Người đến đúng hẹn và sớm nhất, có thể đưa vào kỷ lục là chị Lê Ngọc Điệp. Hai mươi chín người trên chuyến xe này, được lo chu đáo từ A đến Z. Để tranh thủ với thời gian và bớt gánh nặng cho gia chủ, bữa điểm tâm được tổ chức ngay trên xe. Thức ăn gồm có bánh mì thịt, các loại trái cây với chôm chôm, quit, tha hồ ăn., nước uống và có cả khăn lau mặt, không thiếu thứ chi.

      Trong nhóm, đa số là người Vĩnh Long. Ngoài ra có các bạn ở nhiều địa phương khác đến như Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc, Mỹ Tho, Sài Gòn và sau cùng là các bạn đang định cự nơi tổ chức, tỉnh Bến Tre. Sự sắp xếp của ban tổ chức, luôn nghĩ đến sự tiện lợi cho các bạn cùng khóa. Những anh chị từ Châu Đốc, Cần Thơ, đến Vĩnh Long trước một hôm. Qua hôm sau, trên con đường đi về hướng Mỹ Tho, xe dừng, rước thêm anh Lượm. Khi xe vào địa phận Mỹ Tho, còn rước thêm chị Hạnh và cháu. Cuộc hành trình xuôi Bến Tre, trạm dừng chân là siêu thị của tỉnh. Nơi đây, chúng tôi được nhập nhóm chung với xe 7 chỗ ngồi của anh Đẹp. Để thoải mái hơn 4 thành viên trong nhóm được chuyển sang xe của anh Đẹp. 

      Xe trực chỉ đến nhà gia chủ là chị Dương Thị Anh thuộc huyện Ba Tri. Tại nơi đây có thêm sự hiện diện của anh Xiêm, anh Tài ( Tài Sài Gòn). Hai anh đi xe gắn máy từ Sài Gòn đổ xuống. Tại Bến Tre có chị Anh, người đầu bếp trứ danh, anh Chánh, anh Tài (Tài Bến Tre) và anh Vinh. Các bạn trong nhóm và đoàn thê tử, vị chi 39 vị. Trong số 39 người này, hai người ngoài nhóm, nhưng may mắn được tham gia là chị Nhung và tôi. Âu cũng là duyên, chúng tôi về Việt Nam đúng lúc. Chị Nhung từ Mỹ, còn tôi từ lục địa lẻ loi Úc châu. Mặc dù làm người “ăn ké”, nhưng tôi có háo hức vì được gặp lại ba người bạn cùng lớp Đệ Nhất A3 là Lê Ngọc Điệp, Hoàng Thị Thơ và chị Nhung. Hôm ấy, tôi còn có dịp nhìn lại một người thời áo trắng mà tôi rất ái mộ ngày xưa là cô Tào Xíu Xương, em của Tào Xíu Châu, người bạn cùng thời Trung học của tôi. Một người khác cũng rất quan trọng đối với tôi là Anh Huỳnh Hữu Đức, vị ân nhân đã giúp tôi tìm được người bạn Tiểu học bé dại, hơn hơn 40 năm lưu lạc. Ngoài sự háo hức gặp lại những người năm cũ, những người bạn mới vừa quen. Trong dịp này, tôi được viếng tỉnh Bến Tre, có những hàng dừa xanh bát ngát. Nơi tôi chưa từng đến nhưng rất quen thuộc với tên gọi trước đây là Kiến Hòa. Nơi có người bạn thân quen, nhưng chưa hề biêt mặt mà tôi đang kiếm tìm.

       Trên đường đi, thả tầm mắt, nhìn lại quê hương, thu lại những hình ảnh. Có chút xót xa…nhìn thấy những trẻ thơ lam lũ, kẻ gồng người gánh bán bưng. Không bao lâu, chúng tôi đến nơi muốn đến. Sau thủ tục chào hỏi gia chủ, bạn bè nói lời thăm nhau trong rộn rã thâm tình. Chúng tôi cùng đi thăm viếng đền thờ và lăng cụ Nguyễn Đình Chiểu, nơi ghi lại những di tích xa xưa một thời. Thôi thì bao nhiêu là máy chụp hình, bao nhiêu là “nhiếp ảnh gia” tha hồ ghi lại kỷ niệm, lưu lại cho mai sau. Khí trời hôm ấy hơi oi, nhưng có lẽ những hàng dừa cùng hòa lòng với người Bến Tre đón khách, nên chúng tôi chẳng mệt chút nào. Tạm đủ những hình ảnh lưu niệm, đoàn người trở về nhập tiệc. Người gia chủ với nụ cười thật tươi, không theo… “ Tiên chủ hậu khách”. Chị không ngơi đi tới, chạy lui, mang món này, tiếp theo món nọ. Thức ăn cứ thế mà tuần tự được mang ra, màu sắc vừa trông đẹp mắt và quá lạ lẫm với tôi. Nào là cá khoai lăn bột, chiên giòn. Gà nấu cá mòi dùng với bánh mì, món ăn lần đầu mà tôi được thưởng thức qua. Rất đặc biệt với tô cháo vịt nấu đậu xanh, nhắc đến mà tôi còn thèm thuồng nữa đây. Đặc sắc nhất là món cơm hấp với màu lá dứa xanh xanh, trộn nước cốt dừa beo béo, thêm vào chả trăng trắng cắt hạt lựu, trông rất bắt mắt. Ôi chao ơi là ngon! Món nào cũng ngon cả, chị Anh ơi! Thức uống thì chị lo chu tất cho cả nam lẫn nữ là nước nấu đậu đen và rượu đế hay còn gọi “nước mắt quê hương”. Món tráng miệng, nào là bưởi, xoài tứ quí cùng chén muối ớt cay cay.
       Trong buổi họp mặt hôm ấy, có điều đặc biệt mà không thể không nói ra. Đó là một chiếc bánh khá to, được mang từ Vĩnh Long để mừng sinh nhật của hai anh có cùng tháng sinh Mười Một. Lý thú thay là cả hai anh có cùng tên họ là Nguyễn Hữu Tài. Có lẽ từ đó, nên một được gọi là Tài Sài Gòn và một kia là Tài Bến Tre. Nhìn, nghe mọi người cùng hát mừng sinh nhật, hò reo, hát xướng, lòng tôi vui vui, xao xuyến như đang trở về thời áo trắng. Không ngờ, mấy mươi năm qua, những con người đang hiện diện nơi đây, đã từng là những vị…Vi Sư, giờ đây đang sống lại tuổi trẻ hồn nhiên, khơi lại một thời Giáo Sinh chập chững vào đời.


      Cuộc vui nào rồi cũng tàn! Phải kết thúc nhanh thôi, hầu đủ thì giờ cho các bạn nơi phương xa trở về nhà, nội trong ngày. Chỉ khi nào, chỉ có ai nhìn tận mắt giờ phút chia tay tạm biệt, mới hiểu được “cái tình” muốn họp mặt, ai đi xa rồi cũng muốn quay về. Hình ảnh lúc chia tay cũng được chụp lưu niệm lại trong luyến lưu. Ai cũng cười để “ăn ảnh”, đẹp, vui, nhưng đàng sau nụ cười đó, làm sao tránh khỏi bùi ngùi.

      Trước khi chia tay…một lời mời cho lần họp mặt tới, khiến tôi vừa xúc động, ngạc nhiên lẫn cảm phục vì sự mời gọi quá ư là mộc mạc mà chắc chắn, không đổi thay… Kỳ họp tới, lần thứ 16 ở Châu Đốc tại nhà chị Nguyễn Kim Cúc. Ngày hôm đó cũng sẽ là Chúa Nhật, tuần cuối của tháng Mười Một và tên người tổ chức được nêu ra, chịu trách nhiệm liên lạc trong năm tới. Lời mời thật đơn giản, gia chủ không cần nhắc nhở nữa, không bao thư, giấy mời, chỉ chừng ấy thôi mà thâm tình lắm rồi, khiến tôi ngẫn ngơ.

      Rời Việt Nam, tính ra từ ngày họp mặt đến nay, cứ tưởng đã quên, nhưng có người vẫn nhớ. Tôi vẫn còn được luyến lưu bởi người trong nhóm, qua tấm thiệp đầu xuân mà tôi vừa nhận được. Nhìn trên bì thư với con mộc tem ấn của bưu điện Bến Tre, ghi ngày 5 tháng 12 năm 2012. Một chút gì xao động khiến tôi rưng rưng. Mấy mươi năm ly hương, nay đất mẹ tìm về, gặp tình người chân chất đã để lại trong tôi chút gì để nhớ, khó quên.
      Rồi mai đây, trong những giờ đứng trước lớp, với những em học sinh Việt Nam tại hải ngoại, đang theo học tiếng mẹ đẻ, nhưng lại được xem là ngôn ngữ thứ hai. Chắc chắn rằng, tôi quyết sẽ truyền đạt lại cho các em cái tình người mà tôi đã nhận từ một người, người ấy đã một thời từng làm thầy, anh Nguyễn Hữu Tài cũng như những người bạn khoá 8 Cựu Giáo sinh Trường Sư Phạm Vĩnh Long hiện còn đang sinh sống nơi quê nhà. Tôi yêu thích sự quê mùa chân chất mà tấm lòng rất thật. Hãy thử nghĩ mà xem. Kể từ lúc chọn mua thiệp, viết lời chúc vui, ra bưu điện, dán tem vào và gửi đi. Để rồi phó thác “cánh én”… bay xa. So ra trong thời buổi chọn vật chất, phương tiện truyền thông quá nhanh chóng và tiện lợi, thì việc viết thiệp, gửi đi…Tôi chọn lối nhà quê này hơn! Làm sao không cảm nhận hạnh phúc có được, khi cầm tấm thiệp trong tay. 

      Về lại quê hương, có người thích đi chỗ này, chọn lựa chỗ kia để nhìn thấy cái đẹp đẽ, hùng vĩ của quê hương. Riêng tôi, tôi chỉ loanh quanh Sài Gòn, Vĩnh Long, rồi trở lên Sài gòn, về lại Vĩnh Long, nhưng may mắn, tôi gặp được những con người chân tình. Có được sự chân tình, thâm tình kia, thì không thể quên công lao và tấm lòng của những ai nhận lãnh trách nhiệm tổ chức. Cám ơn thay! Cám ơn anh Tài Bến Tre với lời chúc lành và qua Tấm Thiệp Đầu Xuân của anh, anh đã để lại trong tôi cả trời hạnh phúc với từng khuôn mặt, nụ cười của tất cả các anh chị Cựu Giáo Sinh Khóa 8.
      Thế cũng quá đủ cho đời người còn lại của tôi!

Kim Phượng
Xuân 2012

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Quán Báo Bình Minh

                        
             (Dì tư Đức, chủ nhân quán báo Bình Minh)

        “Hỏi xuân có gì vui…xuân làm dáng cho đời…”*.
         Mấy mươi năm qua, xuân xứ người, đến rồi đi. Hỏi cô, rằng xuân có gì vui!?
         Những háo hức mong chờ xuân của thời tuổi trẻ, đã qua. Theo dòng thời gian, xuân vẫn lặng lẽ đến và bây giờ… Hỏi cô, rằng xuân có gì để nhớ?
        Lìa quê hương, xuân trong cô, có chăng chỉ là hồi tưởng. Nhưng lạ sao, những ngày qua, trong đợi chờ xuân đến, cô khoắc khoải nhớ mùa xuân nào của mấy mươi năm trước. Cô nhớ về một nơi chốn. Chốn ấy không còn nữa, nhưng nơi còn vướng víu hình bóng người mình mến thương, nơi ấy sẽ luôn đong đầy kỷ niệm, dẫu tươi vui hay buồn vương mang. Cô muốn nhắc một nơi quá quen thuộc trong suốt thời cắp sách, không cho riêng cô, mà cho rất nhiều người. Đó là Quán báo Bình Minh.

        Quán báo nằm trên một diện tích hẹp, đối diện với trường Tống Phước Hiệp, bên cạnh Tiệm Huệ Hòa, đường Gia Long. Quán báo cung cấp khá đầy đủ các học cụ cần thiết, những tạp chí và nhật báo cho người quanh vùng. Đối với học sinh Tống Phước Hiệp của thời đã qua, nào ai xa lạ gì với Quán báo, mỗi khi ra vào cổng trường.  Nơi đây tuy nhỏ, nhưng đủ sức thu hút người đến. “Người đến”, không hẳn là khách đến mua hàng mà còn những vị khách không mua chi cả, chỉ chàng ràng, nhiệt tình đến vì những lý do riêng. Đó là các anh chàng thường đến lúc trống trường đổ liên hồi, tự chôn chân cạnh Quán báo, tự nguyện làm cây si và tầm mắt thả rong sang tận bên kia cổng trường. Những “vị khách” đã khiến các nữ sinh, tay chân cuống cuồng e thẹn khi bước ra cổng, lòng mong trốn chạy nhanh nhưng không dám đi mau, sợ “chàng chê tướng gian nan không giàu”.  
       

Nữ chủ nhân Quán báo, người không xa lạ với gia đình cô. Nhà dì đối diện nơi cô ở và cùng nằm trên con đường lịch sử của đất Long Hồ mang tên Văn Thánh. Dì hiền lành, điềm đạm, từ tốn, dáng người đến lời nói luôn đi đôi. Đặt biệt, đôi môi dì mang nụ cười hiền và tiếng gọi “con” dành cho các anh chị em cô luôn thân mật, trầm ấm. Anh chị em cô, quen gọi là dì Tư Đức. Ngoài dì, còn có anh Tâm phụ một tay và đôi khi có thêm một hai người bạn của anh Tâm đứng tại quầy, khi vắng bóng dì. Những lúc đó, cô rất ngại ngùng đến Quán báo, không phải vì thuận mua vừa bán, mà bởi anh Tâm cũng là học sinh ở khoảng tuổi cô, thì chuyện “mắc cỡ” âu là bản tính đương nhiên của đa số thiếu nữ, nhất là gái Vĩnh Long.
     Quán báo Bình Minh không những là nơi an toàn cho anh chị em cô gửi tạm xe đạp mỗi khi đi chợ và tối quan trọng hơn, bởi nơi đó là “ hộp thư”. Và dì là cánh én luôn mang “mùa xuân” cho cả bốn mùa. Từ những lá thư thường, thư tình hoặc các điện tín khẩn cấp, đều được đưa về đây trước khi đến tay các anh chị em cô.

        Cô thích nhất vào những buổi chiều, lúc dì dừng xe mà tầm mắt lại hướng sang nhà cô và cất tiếng gọi: “ Phượng ơi con có thư nè”. Trời ơi, còn niềm vui nào hơn cho thời con gái, nơi tỉnh lẻ.
        
        Dì là người mang tin lành đến. Vừa nghe gọi, cô chỉ biết nhanh nhẹn chạy đến bên dì chìa tay đón nhận thư, không giấu che nỗi sung sướng. Không vui sao được, cô nhớ như in trong lần nhận thư. Nhìn tuồng chữ của ai đó lạ hoắc, tên người gửi, cô không biết bao giờ và nơi xuất xứ bức thư cô chưa một lần đến. Hai hôm sau, lại một bức thư khác. Cô đem so đo, lạ thật hai tuồng chữ không khác nhau mấy. Lá thư đầu của chàng chiến sĩ từ tiền tuyến xa xôi gửi về cho người em gái hậu phương, xin được làm quen. Bức thứ hai, của chàng thư sinh tỉnh Kiến Hòa. Thư đến với một lý do chính đáng. Anh chàng cho biết báo Văn Nghệ Tiền Phong bất công về kết quả. Những bài dự thi về Chuyện Vui Cười được đăng trên báo, lẽ ra bài của cô được trúng giải. Anh tự giới thiệu, mình là học sinh ban Toán, Trưởng ban Báo Chí của lớp và đang cùng trình độ với cô. Con gái chúa tò mò “ Phải chăng hai chàng, tác giả của hai lá thư chỉ là một!”. Cô tự hỏi.  Bao câu nghi vấn được đặt ra, nhưng không lời giải đáp, cô vương vấn và tiếp tục thắc mắc hoài.
        Sự tò mò, ngày một lớn dần, cô băn khoăn, vào ra tự hỏi và rồi trong chọn lựa, cô đã hồi âm cho chủ nhân của lá thư thứ hai. Thư được gửi đi, lòng cô hồi hộp đợi chờ. Thư hồi âm đến rất nhanh, cô biết thêm sự đồng cảm nơi người thư sinh này. Anh tự giới thiệu, mình là một người thích đọc sách báo, là độc giả của Tiền Phong, nhưng bất bình về sự chọn lựa bài trúng tuyển, nên anh muốn chia sẻ ý nghĩ với tác giả là cô. Anh còn cho biết, mình là con một của một tử sĩ, hiện sống với mẹ tại Cư Xá Kiến Thiết Kiến Hòa.
        Nhiều lần thư qua, tin lại, sau những trao đổi về việc học, bỗng một ngày… “Mưa có rơi và nắng có phai trên cuộc tình yêu em ngày nào. Ta đã yêu và ta đã mơ …”,** anh muốn kết nghĩa huynh muội. Cô cười thầm, tự nhủ
-   Sao giống Cải Lương Hồ Quảng quá!
        Cái tính ngang bướng lẫn dè dặt của con gái đất Vĩnh, nên điều kiện cô đưa ra, chỉ bằng lòng kết tình huynh đệ, “không chịu thì thôi”. Con gái muốn là ý trời! Mối tình huynh đệ êm ả, phẳng lặng như mặt nước hồ thu. Rồi một ngày kia mặt hồ lăn tăn gợn sóng, khi lá thư cô nhận được dầy cộm hơn bởi hai tấm ảnh của “huynh”. Người trong ảnh khá bảnh trai với đồng phục học sinh, nhưng trông chững chạc bởi cặp kính đen, gọng to. Từ lúc có ảnh huynh trong tủ bàn học của đệ, là chồng chất nỗi lo âu cho cô, nhất là những lúc anh cô từ Sài Gòn về. Cô phải loay quay tìm nơi giấu biệt.
        Biết mà! Cũng đến ngày “đệ” phải đáp lễ lại. Tính cố hữu và cẩn trọng của phái nữ nên cô chỉ gửi đi tấm ảnh chụp chung với các bạn.  Được như thế là huynh mừng lắm rồi và huynh đã dài dòng tâm sự…mượn lời thơ đầy ẩn ý, bỏ lửng, chép không trọn vẹn, “Tóc em dài em cài hoa thiên lý…Miệng em cười…”.
        Thời gian cứ trôi…đôi bên chỉ biết nhau qua hình ảnh. Tình huynh đệ trao đổi chỉ là những khích lệ để cố gắng học hành vì sắp đến kỳ thi Tú Tài Hai. Vào một ngày đầu xuân năm ấy, Huynh trao tặng món quà. Đó là một bản nhạc với lời: “ Chợt nhìn xuân sang nghe mình lớn rồi. Tuổi thơ ơi! Thức dậy vui tròn cuộc chơi…”***. Phải chăng anh chàng cố ý nhắc nhở cô phải biết… lớn rồi. Ngoài ra, cô còn được một quyển Bích báo của trường Trung học Kiến Hòa, trong đó đôi lời gửi gắm viết tặng… Tuy nhiên, đất Vĩnh hiền hòa, nơi còn giữ gìn nhiều hủ tục, nên cô biết mình đã… lớn rồi, nhưng chưa biết mặt nhau thì dám nào đáp lại những điều mà huynh mơ ước và muốn nói đến.

        Sau Tú tài, huynh đỗ hạng cao, ước vọng thi vào Sư Phạm Sài Gòn và mơ làm thầy người ta. Có một điều đáng tiếc cho huynh, cho cô hay cả hai là cô không liên lạc với huynh nữa. Lý do thật đơn giản và buồn cười, là sau khi thi đỗ, hai lá thư cuối, huynh viết cho cô với tuồng chữ hơi tháo, không nắn nót, chẳng cẩn trọng như lúc ban đầu. Thế là vắng thư từ đấy, mỗi người một phương, không ai buồn biết ai nơi nao.
        Thời gian sau, đường tình cô đi có đôi. Cô bước vào Đại học, những mùa hè tạm nghỉ học, trở về với gia đình, thì … Quán báo Bình Minh tiếp tục là “hộp thư”. Cánh nhạn dì Tư tiếp tục đưa tin. Những bức thư tình từ miền xa xôi, quân trường Hải Quân Nha Trang. Thư mang đến lời yêu thương, hòa chút mặn của biến, thêm nồng nàn gió của miền thùy dương cát trắng. Mấy năm sau, mùa hè bất tử đến trong đớn đau. Bấy giờ, cô giã từ thơ ngây, an phận bên chồng, tay bồng bế con thơ vừa tròn tháng tuổi. Ngày ngồi võng ù ơ vỗ con ngủ, người hàng xóm mang đến trao cho má cô một phong thư: “Cô hai, cô xem có phải là thư của nhà cô không? Không đúng với địa chỉ mới, nhưng là tên của cháu Phượng.” Đã nhiều năm trôi qua,  nhìn lại tên người gửi và tuồng chữ năm nào, nét chữ quen thuộc, nắn nót như ngày đầu. Đọc lại thư một lần nữa và cô… cất đi dĩ vãng học trò. Lá thư cuối cùng của huynh với một câu hỏi thật dễ thương: “Đệ có chồng hay chưa?”
          “Chợt nhìn xuân sang nghe mình lớn rồi…”, huynh mượn lời nhạc nhắn nhủ vẫn còn đó, nhưng đệ của huynh bây giờ đã lập gia đình, không còn là đệ của ngày tháng cũ, nên đành im lặng và xin lỗi, không hồi âm.

         Những mùa xuân xứ người đã trôi qua. Bây giờ mùa xuân mới sắp đến. Những buồn vui thời thơ dại, tuổi học trò, những lời thư trao nhau năm nào như sống lại và kỷ niệm êm đềm xin gửi hết vào đây, một nơi đã mất tích, tên không còn nữa, nhưng vẫn hằn in vết ngày xưa…Quán Báo Bình Minh. Một nơi dấu ái, cho riêng cô và của mọi người đã một thời sống tại Vĩnh Long ...
         Xuân sắp về, lời viễn phương, đệ gửi đến huynh, người hiện bên kia bờ đại dương, nay lưu lạc phương nào, đệ luôn cầu mong huynh được an bình. Mỗi năm biết mình lớn dần…càng lớn dần lại càng nhớ nhiều những chuyện chỉ còn trong ký ức .“Hộp thư”, nay không còn nữa và cánh nhạn đưa tin đã ra người thiên cổ, nhưng dì Tư ơi, con vẫn nhớ dì, nhớ nụ cười ấm áp, đôn hậu mỗi khi “ Phượng ơi con có thư nè”.
        Cổng trường vẫn còn đó, sừng sững, nơi quê nhà. Người Bạn huynh đệ năm xưa chẳng biết phương nào, Quán báo mang tên Bình Minh đã mất, nhưng đang sống lại và tôi, thân viễn xứ, nhưng linh hồn này, mãi mãi chôn chặt trong lòng đất Long Hồ Vĩnh Long.

Kim Phượng
2010
* Lời nhạc Tôi Chưa Có Mùa Xuân của Nhạc sĩ Châu Kỳ
** Lời nhạc Bản Tình Cuối của Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên
***Lời nhạc Mùa Xuân Đi Qua của Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng


Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2014

Kỹ Thuật Tìm Về


        Bầy chim vỡ tổ lìa cành!
        Những cánh chim non Kỹ Thuật, chưa ra ràng, bị bức tử, buộc đập cánh bay.
        Biết về đâu?
        Bên bờ mé tổ…trời ngoài kia thăm thẳm xa, phương hướng vô định, lòng đầy hoang mang và tương lai mịt mờ, vô vọng. Các thầy cô đành câm nín, khoanh tay đứng nhìn bầy chim con, trong uất nghẹn, xót xa. Cơn mộng dữ, khiến cảnh đời dở dang.
        Mới đó, nay đã mấy mươi năm rồi còn gì!


        Những buồn vui theo mệnh nước. Những mất còn của người đi kẻ ở. Những nước mắt đớn đau, khóc chia lìa. Tất cả chưa mờ xóa, vẫn còn và hằn sâu trong tâm tưởng. “Người Kỹ Thuật” hôm nào, màu áo còn xanh, tươi vui, hồn nhiên, thênh thang trên đường hy vọng. Bỗng chốc, ly tan, ngày xanh niên thiếu bị đẩy lui vào dĩ vãng. Không có sự chọn lựa, người người trôi dạt, tha phương. Kẻ bị vùi sâu vào lòng biển lạnh. Người lạc loài đến bến lạ xa xôi. Rồi thời gian, hẳn làm bạc dần màu áo. Nhưng điều kỳ diệu, con tim "Người Áo Xanh" vẫn nồng nàn, chan chứa tình. Tình Đồng Môn, tình Tôn Sư Trọng Đạo.

     Những cánh chim tưởng đã chết non, nay vững tin yêu chấp cánh, họp đàn, tìm về tổ ấm chung, Liên Trường Kỹ Thuật Việt Nam/ Úc Châu và cùng quay quần trong đêm Đại hội kỳ thứ 6, tại thành phố Melbourne. Nơi đây nắng xuân còn mơn man, lấp lánh đầu cành, hòa quyện hơi ấm tình người đến với người, trong ngày 29.11.2013, đầy nhộn nhịp và hẳn khó quên.
        Bằng nụ cười ấm, rạng rỡ, bằng cái siết tay thật chặt của các Anh Chị Em trong Ban Tổ Chức, đã thân tình đón chào Người đến tham dự. Chương trình bắt đầu là lễ chào Quốc kỳ Úc - Việt. Dù thời gian lưu lạc trên xứ người, dài hơn cả tuổi đời sống trên đất mẹ. Vậy mà…Nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ ngạo nghễ, Bài Quốc ca hùng hồn vang dậy, Phút mặc niệm, tưởng nhớ Tiền nhân, các Vị quốc vong thân, không ai tránh khỏi se lòng. Hồn thiêng sông núi bừng bừng sống lại…Hồi ức ngày tang thương của mấy mươi năm trước chợt về. Lòng bồi hồi một cách lạ và ươn ướt trên hàng mi.
       Thành phần quan khách góp mặt trong đêm Đại hội, được giới thiệu đến với mọi người. Trong số đó, có kẻ thân quen, người thật xa lạ. Nhưng trong ánh mắt, nụ cười trao đổi, quả thật…

Người xa mà ngỡ như gần
Gặp nhau chốn lạ tình thân tràn đầy

Trưởng Ban Tổ Chức khai mạc Đại Hội


          Bài diễn văn khai mạc của Trưởng Ban Tổ Chức tiểu bang Victoria, ông đã nói lên hết những cảm nghĩ sâu sa về lần đầu tiên tổ chức cuộc họp mặt.
        Bao niềm vui gặp gỡ bạn bè xưa cũ vừa chợt đến trong đêm hội ngộ, những giọt nước mắt trong phút mặc niệm chưa nguôi, thì một hồi trống vang lên. Nghi thức Bái lễ bắt đầu trong trang nghiêm và mọi người im phăn phắt để tỏ lòng, tưởng nhớ Thầy Cô và Đồng Môn, những Người đã vĩnh viễn ra đi. Nhịp đập con tim của người hiện diện dập dồn theo tiếng trống. Lòng người có mặt, cùng chung hồi hướng, chiêu hồn.

Nhang lòng thắp một nén thương
Mượn mây nhờ gió mở đường hiển linh

      Hương linh các Bậc Sư, những Đồng Môn, đã khuất, phải chăng đang hiện diện chứng giám, theo từng vòng bái lạy. Trong phút giây đầy xúc động này, có lẽ những oan hồn uổng tử “Áo Xanh” còn vất vưởng, đang lênh đênh trên biển cả mênh mông, không còn lẻ loi nữa.

Đại Diện Cựu Học Sinh cảm ơn Thầy Cô
         
        Tiếp theo là cảm tưởng của một cựu học sinh Kỹ Thuật Vĩnh Long, lời ưu ái dành cho tất cả Thầy Cô. Giá mà mấy mươi năm trước, các em có được suy nghĩ như lời phát biểu này, thì “đỡ’ cho thầy cô biết mấy, đã trễ, nhưng không quá trễ. Thì ra, đàng sau sự nghịch ngợm, sự phá phách. Đàng sau biệt danh, nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò, các em đã cảm nhận được “Không thầy đố mầy làm nên”. Qua sự nhắc nhớ của Em cựu học sinh này, thầy cô có dịp nghiền ngẫm, thế nào là “ Dĩ thân vi giáo”, dùng chính thân mình để hướng dẫn học sinh và thế nào là “thiên chức” của một nhà giáo.

       Tinh thần Tôn Sư Trọng Đạo còn được thể hiện qua món quà lưu niệm, mang lại niềm hãnh diện lớn lao cho thầy cô trong đêm Đại hội kỳ 6 này. Quà tuy đơn sơ, nhưng “cho và nhận” bằng cả tấm lòng, mang ý nghĩa trọn vẹn, gói ghém tấm chân tình của người học sinh dành cho thầy cô và đã gợi lại bảng đen, bụi phấn mờ mờ, những hình ảnh thân quen ấy chưa vùi vào quên lãng. Ai dám bảo rằng, người của “dao, búa, kềm, đục” chỉ biết kềm, đục, búa, dao. Người khách học trò thưở nào, được đưa qua sông, vẫn chưa quên người lái đò thầy cô năm cũ.
      Xuân Melbourne đang đem mong nhớ trở về!

Tặng quà tri ân Thầy Cô

        Đặc biệt hơn, trong lần họp mặt này, chất keo sơn tình nghĩa nào đã gắn bó gái Kỹ Thuật cùng trai Tống Phước Hiệp và tình trong câu hát ra đời, qua nhạc phẩm Kỹ Thuật Hành Khúc. Tác giả, Nhạc sĩ Nguyễn Canh Tân cho biết, anh nào biết gì về Kỹ Thuật, nhưng qua lời người bạn đường của anh, đã phôi thai cho đứa con tinh thần đó. Thướt tha trong chiếc áo dài xanh, các chị trong Ban họp ca cùng cất cao tiếng hát. Lời ca quyện vào, lay lay tà vạt và bắt được tiếng lòng của người nghe…để nhớ, để thương, thổn thức về thời xa cũ và xoa dịu vài nỗi muộn phiền chất chứa quá nhiều, từ bao năm trên bước đường lưu lạc. Hành Khúc Kỹ Thuật vừa chấm dứt. Những bản tình ca tiếp nối, buổi dạ vũ bắt đầu, cùng tiếng nói cười rôm rả của quan khách khi nhập tiệc.

        Cuộc vui nào rồi cũng tàn! Mọi người chia tay trong lưu luyến và hẹn đến năm sau. Hẹn hò năm sau, chỉ là lời hứa cùng các thân hữu, chứ “Người Áo Xanh”, chia tay sao nỡ...
      
Họp ca Kỹ Thuật Hành Khúc

        Bước sang ngày thứ hai, những người của năm xưa, cùng họp tại trụ sở RSL Footscray. Gọi là buổi tiệc chia tay, đưa tiễn, nhưng tiềm ẩn hội ngộ, để nuôi mầm gặp gỡ trong tương lai.
        Ngồi quanh đây, đa số những người con yêu của gia đình Kỹ Thuật và thân nhân. Mọi người có dịp hàn huyên tâm sự, cùng chia sẻ những chuyện đời góp nhặt, với thầy cô, đồng nghiệp cùng trường, bạn học cùng lớp một thời và là dịp quen biết với các bạn Kỹ Thuật từ các nước phương xa như Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ đến tham dự. Nỗi xúc động khi diện kiến với bậc đồng nghiệp trưởng thượng, không cùng thời, nhưng từng dạy chung dưới một mái trường Kỹ Thuật Vĩnh Long. Mối duyên gặp gỡ các thầy cô, dù không một phút giây thọ giáo, nhưng có sự kính trọng và nặng tình một cách lạ lùng, như thể là thầy cô của mình vậy.
        Về phần ẩm thực, rất nhiều món ăn, món nào cũng đậm đà. Có lẽ được nêm nếm, thêm thắt bằng gia vị “tình” từ tấm lòng và đôi tay khéo léo của ‘Con”, “Dâu” Kỹ Thuật.
        Buổi họp mặt còn thêm phần karaoke giúp vui. Dù các vị tự giới thiệu mình là ca sĩ “cây nhà lá vườn”, nhưng từ giọng ca của ông Hội trưởng đến các Hội viên, đều ngọt ngào, mượt mà, trữ tình lẫn sôi động, đưa hồn người nghe về tận đâu đâu. Và một hình ảnh đậm nét, không thể không nhắc đến. Đó là Người cựu học sinh Kỹ Thuật Vĩnh Long, đã chỉnh sửa âm thanh, chọn lựa bài hát và anh đã âm thầm ngồi làm việc ấy, cho đến tàn cuộc vui.

Cựu Giáo Sư, Cựu Học Sinh, Thân Hữu

        Thời gian qua mau, tối đến, mọi người thêm một lần nữa chia tay trong lưu luyến. Đi không nỡ, ở không xong, đành hẹn sang năm gặp lại. Một số người khác, hôm sau sẽ trở lại, tại địa điểm RSL này, lúc 9 giờ sáng.
        Lần gặp gỡ thứ ba, buổi du ngoạn của nhóm Liên Trường Kỹ Thuật Việt Nam/ Úc châu. Số người đi ít hơn, nhưng không vì thế mà mất vui. Những người con Kỹ Thuật như có cùng một mẹ Âu Cơ. Một số đưa nhau lên Hanging Rock, leo núi. Một số đi biển, tìm đến Port Campbell ngắm 12 vị Thánh Tông Đồ. Đến chiều, mọi người cùng gặp lại, dùng bữa ăn thân mật tại nhà hàng Phú Vinh, đặc sắc với món ăn đậm đà quê hương …canh chua và cá kho tộ.

        Đại hội kỳ 6, nhưng là lần đầu tiên được tổ chức tại Tiểu bang Victoria. Sự thành công khá mỹ mãn. Có được kết quả như thế, nhờ sự đồng tâm và họp lực của những người quyết gìn giữ Màu Áo Xanh cho bây giờ và đến mai hậu. Công khó, sự giàu lòng, tích cực đóng góp, chuẩn bị chu đáo, của Anh Chị Em Ban Tổ Chức ở Melbourne. Sự hổ trợ nhịp nhàng, đắc lực, tận tình và đầy nhiệt tâm của các Anh Chị đến từ Sydney. Tài khéo léo của các “Nàng dâu hiền”, sự linh hoạt của các “Chàng rể quý” Kỹ thuật. Một điều rất chắc chắn, Đại hội lần này, chẳng được như mong muốn, nếu không có sự hưởng ứng và ủng hộ nhiệt tình của quý thân hữu và người thân của các thành viên. Dù là lần đầu gặp gỡ, nhưng sự hiền hậu, dễ thương, thân mật của mọi người, khiến người ta quấn quýt lúc bên nhau và lúc chia tay không tránh khỏi lưu luyến, bùi ngùi. Và dưới mái trường, Liên Trường Kỹ Thuật Việt Nam/ Úc châu. một câu hỏi được đặt ra: Chúng ta họp mặt để làm gì? 
      Phần trả lời có lẽ tùy ở góc nhìn và trái tim cảm nhận của mỗi người đến tham dự. Trải qua bao sóng gió nơi trường đời, những “Người Áo Xanh”, dù đôi cánh mỏi vẫn ước mơ bay về trường xưa, tìm lại bạn cũ, thầy cô năm nào. Sống lại phút giây êm đềm vụng dại. Duyên quen biết giữa những người xa lạ mà lòng như gặp nhau tự thưở nào. Tuy nhiên, nghe không bằng thấy. Hãy đến với nhau để cùng chia sẻ.

Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Kỹ Thuật Vĩnh Long 

        Đại gia đình Liên Trường Kỹ Thuật Việt Nam/ Úc châu, hạnh phúc trong ba ngày ngắn ngủi, nhưng đã để lại cho nhau cả quảng đời thơ ấu ấm áp. Hôm cuối cùng, gặp để chia tay, nơi bãi đậu xe sau nhà hàng Phú Vinh, chẳng khác nào quang cảnh sân trường của mấy mươi năm trước. Mọi người tụm năm, tụm ba, bịn rịn giả từ. Buổi chia tay không rơi vào mùa hè, nhưng đâu đó âm vang tiếng ve, sắc màu phượng vỹ, sự thương cảm, nỗi thảm sầu của 90 ngày tạm biệt. Những dư hương của ngày xa xưa ấy, như vẫn còn đó và giờ đây Màu Áo Xanh năm nào đã vượt ngàn trùng cách trở, tìm lại, tìm những kỷ niệm êm đềm, tìm lại những cánh phượng, dù sái mùa.

Chiều hôm lại nhớ chiều hôm ấy
Đường những hương xa phượng sái mùa
Có phải tin về hè muôn đến
Hay lòng rộn nở vội đơm hoa

Lòng cảm hoài …

Thương buổi trưa ve êm ả giọng
Lim dim nằm ngóng guốc khua vang

Hạnh ngộ rồi cũng đến phút chia tay, hẹn năm sau gặp lại để tìm lại ta…

“Ta còn lại gì hôm nay
Trong cuộc đời nhiều chua cay
Còn là người, còn nụ cười
Nụ cười trên đôi môi
Nụ cười đời đổi thay…”*

      Sự việc thay đổi từng phút giây. Thời gian vô tình, cứ vùn vụt trôi, không chờ đợi. Nhưng lòng, “Chờ người không đến vẫn chờ…”*. Chờ “Người Áo Xanh”, ngày về một đông thêm. Bởi…

“Còn gặp nhau hôm nay mới hay thêm được một ngày”.**

Cựu Giáo Sư Cựu Học Sinh, Dâu Kỹ Thuậ và thân hữu Vĩnh Long


Kim Phượng
29.11.2013
 *     Lời nhạc của Nhạc sĩ Nguyễn Canh Tân
   **  Lời nhạc của Nhạc Sĩ Lam Phương

Thơ Tranh: Gọi Thầm


Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh

Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Tranh Câu Đối: Hương Xuân


Câu Đối: Quên Đi
Tranh: Hữu Đức


Ẩn Tình


Trên đầu cỏ dại mọc hoang
Trong tim âm ỉ, lỡ loang tình đầu
Lần tay khâu mối thảm sầu
Cầm như nước chảy qua cầu gió bay !

Trách người sớm đổi dễ thay
Khổ đau bất hạnh riêng ai thoát nào?
Thuyền tình cõi sóng ba đào
Cuộc đời ngắn ngủi nhiệm mầu ơn trên

Người làm Linh mục Dòng Tên
Kẻ theo chân Phật mong lên Niết Bàn
Còn bao cuộc sống ngang tàng
Nghĩa nhân xem nhẹ sai đàng vẫn đi

Tơ tằm" sinh ký tử quy"
Tự mình chuốc khổ tình si lỡ làng
Lắng nghe chuyện " cup" nước tràn
Đầy vơi vẫn chứa "trà ngang trái" buồn

"Trà buồn" hãy đổ cho tuôn
" Tách tâm hồn" rỗng tim ươm mong chờ
Châm đầy trà " chất hồn thơ"
Luân lưu giọt máu đọng bờ tha nhân

Người xa mà ngỡ như gần
Người thương lại chẳng nợ nần chi nhau
Bỏ thuyền tách bến khổ đau
Nhành vô ưu trổ trên cao, nụ tình.


Kim Phượng

Melbourne 2003

Tranh Câu Đối: Xuân Giáp Ngọ 2014


Câu Đối: Kim Phượng
Tranh: Kim Oanh


Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2014

Loài Hoa E Thẹn



Lá nhẹ khép trong tay
Yêu hoài hoa Mắc Cỡ
Bỡ ngỡ mộng tình đầu
Màu tim tím anh mơ

Rưng rưng quá đỗi nhớ
Màu áo tuổi dại khờ
Xóa đam mê đêm về
Ôi làm sao có thể

Quên tường hoa bóng ngả
In hình dáng em xưa
Lá nhẹ khép trong tay
Tròn xoay em giấc ngủ

Hoa Trinh Nữ vùi say!


Kim Phượng

Thơ Tranh: Giang Tuyết(Liễu Tông Nguyên) - Một Mình Trên Sông



Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh


Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2014

Xuân Về Trên Sóng Nước




Lênh đênh trời đất bao la
Mang cánh Hoa Biển làm quà đầu năm
Ngày xuân từ chốn xa xăm
Thả trôi theo sóng thư thăm về nàng

Lòng anh như hải đảo hoang
Chờ mong hương ấm tỏa sang nơi này
Quanh đây ngày tháng thật dài
Ước mơ chấp cánh thôi hoài nhớ nhung

Kim Phượng

Thứ Năm, 16 tháng 1, 2014

Đời Mẹ Bức Tranh Thêu


Đời Mẹ! Đẹp bức tranh thêu
Chỉ lòng óng ánh thêm đều mũi kim
Thanh thanh họa nét nổi chìm
Hài hòa sắc thắm bình yên tâm hồn

Tuổi kề cận buổi hoàng hôn
Còn bao mũi khó ngõ dồn công lao
Ngắm tranh nào rõ phía sau
Bao nhiêu mối nối nỗi đau Mẹ hiền

Tranh đời! Suy ngẫm giấc yên!

Kim Phượng

Mộng Ngày Xanh




Lấp lánh sương mai chạm đầu cành
Mộng ngày xanh yến anh đúng hẹn
Dõi tin đưa cánh én quay về
Ngát hương thề đượm thắm tình xuân

Làn gió mới bâng khuâng khóm trúc
Bướm vờn quanh thôi thúc cành mai
Nắng hiên ngoài trở giấc hương xưa
Chiều Ba Mươi vẳng đưa tiếng pháo

Rộn ràng tà vạt áo trinh nguyên
Nơi đầu tuyến lòng người lính trẻ
Bao lần xuân hẹn sẽ trở về
Vén trừ tịch cơn mê đến vội

Cánh sen nồng màu môi thắm đọng
Buổi ban đầu xây mộng duyên sau
Em dáng mỏng anh đào rực rỡ
Tuổi ngây thơ ngan ngát nụ hồng

Thơ dăm câu chờ mong khao khát.

Kim Phượng

2010


Chủ Nhật, 12 tháng 1, 2014

Chị Hai Như Hoa Héo...- Kim Phượng - Dương Thượng Trúc

Mến gửi chị Kim Phượng


Lòng Mẹ -Nhạc Sĩ: Y Vân -Tiếng Hát: Giao Linh
Mẹ Tôi - Nhạc Sĩ Nhị Hà - Tiếng Hát Bão Yến
Tâm Bút: Kim Phượng
Giọng Đọc Và Thực Hiện: Dương Thượng Trúc


Em Tôi

“Xa mặt cách lòng!” Điều này có thể đúng, nhưng với em tôi thì không.
“Chín người mười ý”! Nhưng tôi không ngại quá lời, khi đảo ngược “Mười người chín ý”. Bởi vì, trong gia đình mười người con, em và tôi có rất nhiều điểm tương đồng.
Suốt thời niên thiếu, thời gian chung sống bên nhau của em và tôi dài hơn các anh chị em khác. Cả hai chúng tôi, đong đầy kỷ niệm vui buồn, giận hờn trong cuộc sống hàng ngày. Mọi việc, từ hành động, lời nói cho đến lối suy nghĩ của em và tôi khá giống nhau.
      Em nhỏ hơn tôi những hai tuổi chứ ít gì, nhưng chưa một lần cung kính gọi tôi bằng “chị”, có chăng chỉ là “ông bạn” hay đôi khi đổi tong, dựa theo số thứ tự trong gia đình, em kêu tôi bằng tiếng “ sáu” cộc lốc.
Em là đứa “trù trừ” lắm! Má thường bảo thế. Khi còn bé, sáng nào em cũng quấy má. Buổi chợ mai, má bận rộn chào đón khách hàng vào ra tiệm buôn. Vậy mà, hôm nào cũng thế, vừa thức giấc, đưa tay dụi mắt, là em vội ngồi thụp xuống nơi thu ngân và bắt đầu “kéo đờn cò”. Em khóc! Cái tiếng khóc hị hị như tiếng mèo con kêu. Em khóc dài…dai dẳng đến đổi như quen thuộc quá với khách hàng. Lâu dần, tiếng khóc của em như bản đàn đơn điệu và người nhạc sĩ tí hon này cũng tự mình chấm dứt bản nhạc nhè khi biết chán khóc.

      Lớn thêm một chút, em gần gũi với tôi hơn, sự gần gũi… lưu lại trong tôi những hình ảnh khá quen thuộc. Tôi đã quá quen với cậu bé mang chiếc quần đùi, quai tréo, màu tím... Vào tuổi đó, em nào biết ngại ngùng gì với cái màu tím xa xăm ấy. Những hôm chiếc quần tím bị vấy ướt, em khóc nhè và trách tôi “tại sáu”. Ừa, thì tại tôi, tôi không đủ nhanh tay vì những chiếc khuy nút má làm quá nhỏ lại chặt, chẳng dễ dàng gì cho một đứa trẻ như tôi có thể giúp em cởi ra đúng lúc.Tôi cũng vất vả với em không ít, nhất là trong việc giặt giũ. Em và cậu em kế là đầu đàn lũ trẻ trong xóm. Thừa lúc má ngủ trưa, em dẫn đám con nít ra đồng bắt dế trong những trưa hè nắng chang chang, đầm mình dưới mương bắt cá hoặc chặt bập dừa tập bơi, thả trôi nổi, lặn ngụp trên sông Giồng Ké. Em là một trong hai đứa mà cậu tôi gọi là “lục lạc lăn lục lạc lửa”.

      Với những trò chơi dễ vương vãi vết bẩn trên quần áo như thế, bằng đôi bàn tay bé nhỏ của tôi, làm gì giặt sạch cho hết. Thương con gái, ba tôi đóng một thớt cây to, mua bàn chải lớn, giúp tôi dễ dàng hơn trong việc giặt giũ. Thớt to, bàn chải lớn tiện lợi thế đó, nhưng giặt hoài bàn tay nào chịu nỗi. Ngồi đến còng lưng, sinh mỏi, nên “nhất cử lưỡng tiện”, tôi cho tất cả đồ giặt vào thau, đưa chân trần mà giẫm cho sạch.

      Phiền trách em đó rồi tôi lại quên đó, những khi em bày trò vui chơi. Thời chúng tôi, lúc chiều đến, đêm về, sau giờ học, làm gì có những phương tiện giải trí như ngày nay. Hai chị em tôi với trò chơi tự sáng tạo. Chúng tôi thay phiên nhau, đứa này đưa ra một vần, đứa kia phải tìm cho được một người nào đó trong xóm, mà tên họ ráp đúng với vần vừa nêu ra. Trong cuộc chơi, ai thua sẽ chịu phạt bằng cách bị búng vào tay, đến đau điếng chứ chẳng vừa. Em luôn giữ tinh thần thượng võ dù rằng nhỏ tuổi hơn. Hai đứa cùng oẳn tù tì để vào cuộc :
- Ò …ò…
- Ba Cò.
- Ìa…ìa..
- Năm Chìa
- Ọ…ọ…
- Hai Lọ
- Ông…ông…
- Chín Đông

      Sau trò chơi ấy, tất cả anh chị em trong gia đình đều mang một bí danh, được lấy tên từ những người hàng xóm. Nói nhỏ nghe thôi, Chín Đông chính là Kim Oanh, người chủ nhà trang Blog Long Hồ Vĩnh Long
      Tôi với biệt danh sáu Chọt. Đó là tên bác Sáu sống cách gia đình tôi vài căn phố. Sau này có người cắc cớ hỏi, phải chăng lúc nhỏ tôi hay ăn cắp lắm nên mang biệt danh ấy. Chỉ có trời mà biết!
      Còn em, nhà thơ Phố Núi, được gọi là Bảy Hí, vì theo lời Ba tôi, em mà gặp các cô gái, cười một cái, mở mắt ra con gái đi mất.
      Những đêm chị em quay quần…như bất tận, những cuộc vui cũng đến lúc tàn, tuổi thơ cũng vội qua. Tôi vào Đệ Thất, rời gia đình, xa em. Chỉ cần một năm xa nhà thôi, tôi như lớn hẳn, mà là người lớn thật vì tôi thay ba đưa em đi dự thi Đệ Thất. Ngày nay, ở tuổi em, các học sinh vẫn còn tay trong tay theo mẹ đến trường. Một đêm trước ngày thi, chúng tôi đến ngủ tạm nhà bạn ở Vĩnh Bình. Chính cái đêm ấy, lần đầu tôi cảm nhận được sự uy nghi, đỉnh đạt của mình khi được em rụt rè, khép nép đi bên cạnh, dắt đâu, em theo đó, chỉ bảo điều gì, em răm rắp nghe theo. Đúng thật là dân quê lên tỉnh! Tôi đưa em đi ăn hủ tiếu, trong khu chợ Vĩnh Bình. Chưa lúc nào em hiền như lúc này. Trước cảnh tượng lạ lùng, em im lặng nhìn người qua lại, nếu cần hỏi chuyện, em vẫn cố hữu dùng tiếng “sáu” cộc lốc hoặc nói trổng.

      Sáng hôm sau, trên đường đưa em đến phòng thi, không quên dặn dò những kinh nghiệm tôi đã trải qua. Khi bóng em đã khuất dần sau cửa phòng thi, tôi bước vội, lăng xăng theo nhóm người giải đáp đề thi toán, do ai đó từ bên trong phòng thi ném ra. Ngồi đợi chờ em, tôi với bao nhiêu suy nghĩ mông lung và ước mơ đến vội. Tôi nguyện cầu em được trúng tuyển. Nếu em trúng tuyển, đó là cơ hội duy nhất tôi không bị lẻ loi trong căn nhà trọ, nơi chỉ có tôi là đứa con nít độc nhất. Thời gian như chậm lại, dòng suy tư bé bỏng của tôi trôi theo, đến khi tiếng chuông reo vang, báo hết giờ thi, tôi hấp tấp đến đón em.

      Kết quả thi không như mong muốn. Em lên Vĩnh Long và trở thành học sinh trường bán công Nguyễn Thông. Còn tôi ở lại Vĩnh Bình, niềm hy vọng được bầu bạn cùng em đã tan theo mây khói. Ở đây, những ngày đầu tuần dài lê thê, bước chân như nặng nề hơn trên con đường dẫn đến trường Công Lập Vĩnh Bình. Nỗi u uẩn của đứa trẻ xa nhà nơi tôi không vơi, đêm về buồn không ai biết, âm thầm khóc chẳng ai hay. Đến lúc ba má biết được, người xin thuyên chuyển cho tôi về Vĩnh Long, ở chung với anh chị em. Thật là một điều nghịch lý lẫn bất công cho tôi. Tôi thừa khả năng, đã trúng tuyển vào trường công, nhưng người điều hành của trường Tống Phước Hiệp chối từ và chẳng đặng đừng tôi trở thành học sinh Nguyễn Thông, cùng trường với em.
(Lê Kim Hiệp, Lê Kim Phượng - Văn Thánh Miếu)

      Ngày đầu em chở tôi đi học bằng xe đạp, em lạn qua lượn lại, mặc tình cho tôi ra sức giữ chặt yên xe nếu muốn an toàn. Theo lộ trình… sáng em đi đường này, trưa về ngõ khác. Mỗi ngày em mỗi đổi hướng đi, cộng thêm tính tối dạ của tôi, như người mù lối, tôi chỉ còn cách méc ông anh:
- Anh tư coi thằng Hiệp kìa, chở em mà nó cứ thay đổi lối đi hoài làm sao em biết đường đi học.
      Méc để thị oai, thật ra tôi thương em, vì mang danh nam nhi chi chí nên phải nai lưng đèo tôi đi học. Đã vậy sau giờ tan trường, bánh xe bị xì hơi hoài thì cũng chính em là người đi mượn ống bơm của bác bán cà rem cạnh sân trường. Nhớ hoài, thương mãi hình ảnh đứng lom khom, hì hục với ống bơm, bên chiếc xe xì bánh.

      Đã thế, đi học về chúng tôi còn tự nấu ăn, vì không có ba má sống chung. Các chị em tôi thay nhau trong vai trò hỏa đầu quân và mỗi người có toàn quyền định đoạt món ăn khi đến phiên mình. Mỗi lần em làm bếp, bà chị thứ Ba khóc hoài hoài, vì theo chị món hủ tiếu xào mà em nấu có bổ gì đâu mà ăn hoặc khi bà chị Năm làm em phiền lòng, thì y như rằng nồi cà ry hôm đó sẽ cay hơn.

      Bản tính em là thế đó, nhưng lại hiền hậu và độ lượng trong cách sống. Tính em tiện tặn khác hẳn sự tiêu pha của chị Năm, nên việc em cho chị vay nợ, không lấy gì làm ngạc nhiên. Em rất dễ dàng khi cho đi, nhưng lúc cần đến, chị khất hoài không trả lại tiền, nếu em tiếp tục đòi, thì thế nào cũng…
- Ai biểu ngu cho mượn chi.
      Bị mắng, nhưng em tiếp tục “ngu” hoài.
      Em tôi ngoài tài nấu ăn, lại có khiếu văn chương. Em thích đọc sách báo lắm, phong lưu trong việc bỏ tiền mua báo Thời Nay và Văn Nghệ Tiền Phong. Ban đầu em rủ rê chúng tôi cùng đóng góp mua báo, nhưng ai dại gì mà bỏ tiền cho kẻ đam mê như em.
- Thôi tụi chị không thích coi. Chị Năm và tôi đồng trả lời.

      Thế là em tự “phung phí” tiền và dĩ nhiên là em xem một mình, sau đó đem giấu mất. Bà chị Năm và tôi thừa lúc vắng em, tìm tòi lục lạo khắp nơi, nhưng nào tìm đâu ra. “Quyết chí thì nên!”, chúng tôi rình rập, đợi chờ tìm cho được nơi chốn bí mật đó. À, thì ra, quyển sách được đặt bên dưới chiếc rương cây.
      Chị và tôi thiệt tình! Đã xem lén mà còn lém và lối. Trên bàn ăn, chúng tôi giả đò trò chuyện, nhưng nói toàn là những chuyện đăng trong số báo em vừa mua. Đôi mắt hí của em càng nhỏ hơn khi em nhìn chúng tôi, rồi em cười cười mà chẳng nói lời nào. Đến số báo kế tiếp, theo thói quen, chúng tôi đưa tay tìm báo dưới đáy rương. Chẳng có!
- Vậy thằng Hiệp nó giấu ở đâu? Chị tôi hỏi như gắt.
      Chúng tôi không nản lòng. Lần này em giấu tận trên mái nhà. Tôi làm sao quên được cái hình ảnh em, hình ảnh…mắt em đảo qua, ngó lại và nhanh chóng trèo lên cao, cất quyển báo, theo em có lẽ đó là nơi an toàn. Nhất cử nhất động của em làm sao tránh khỏi sự cố tình của chị Năm và tôi.

      Ngoại hình của em rất “cù lần”. Trong khi các học sinh tĩnh lẻ đã biết chưng diện, chạy theo thời trang, thì em tôi chỉ “lượt là” với quần kaki xanh, ngắn cũn cỡn, để lộ đôi vớ đỏ chói. Thầy Nghĩa dạy Anh văn, thầy cho rằng em cao bồi, nên trù dập, “dợt” bài em hoài. Có lẽ nhờ thế nên môn Anh văn em được điểm cao. Đến năm Đệ Tam, em chọn Pháp văn cho sinh ngữ thứ hai. Em siêng năng lắm, sang sáng thức sớm “gạo” bài, trong thanh vắng tiếng em lồng lộng:
- É ni mô…é ni mô…cọp vật.
Tôi bị đánh thức bởi bài học dị kỳ và giọng đọc quá to của em. Càng lắng nghe, tôi càng thắc mắc, chẳng chịu đựng được tôi vội bước ra:
- Hiệp học cái gì vậy?
- Pháp văn.
      Sau một phút suy tư, à…thì ra… animal, nhưng vì em viết chữ quá tháu, từ chữ “con vật” biến thành “cọp vật” và môn học tiếng Pháp, nhưng lối em phát âm lại là tiếng Anh.

      Bảy năm dài của bậc Trung học hoàn tất, em và tôi mỗi người một phương trời. Chúng tôi như bầy chim đủ lông cánh bay xa, ít dịp gặp lại ngoại trừ những ngày lễ trọng. Đến 75, đàn chim lại tất bật, bất đắc dĩ tìm về tổ ấm. Dưới mái nhà xưa, chúng tôi cùng chung sống, êm ấm đó, nhưng đàn chim sống trong đợi chờ lo âu thường nhựt. Có những hôm, em, tôi cùng vác cuốc trồng khoai sắn trên mảnh đất của người anh rễ, cách nhà không xa. Chúng tôi có dịp nhắc lại trăm ngàn chuyện cũ, cười rũ rượi, nhưng rồi buồn đó, mất hết vô tư. Từ sau năm 1975, em trở về Vĩnh Long và cùng tôi, sống lại trong căn nhà xưa. Tôi “cô giáo hippy tĩnh lẽ”, đã đổi đời … ngày hai lượt “đeo” theo xe đò làm cô giáo miền...quận lỵ Tam Bình. Năm ấy, chiếc bàn ăn cũng là nơi tôi ngồi chấm điểm thi cuối năm cho học sinh, em đi phớt ngang qua …
- “Ông bạn”cứ lo dạy hoài. Tôi thầm hiểu được điều em muốn nhắc nhở.
      Lời em là cánh buồm đưa tôi ra khơi. Trong chia tay bằng lời hứa chắc chắn, em sẽ ở lại lo cho ba má trước, rồi mới quyết định cho riêng mình.
  
      Đến năm 1984, ba má tôi sang Úc châu định cư. Em đã chu tất và trọn giữ lời lo cho ba má. Những ngày xa quê hương, nhớ về căn nhà em đang sinh sống, tôi áy náy hoài và nghĩ về em, về hoàn cảnh và cuộc sống của người ở lại. Lắm lúc viết thư cho em, tôi khuyên em hãy lo cho tương lai, sau đó thì đoàn tụ vợ con khi khả năng cho phép. Em hồi âm với lời rất khẳng khái:
- Bao giờ đầy đủ hết vợ con em mới đi.
      Hiện nay, em vẫn ở lại quê nhà. Em không còn gọi tôi bằng tiếng “ông bạn” mà chỉ cộc lốc tiếng gọi “sáu” và qua điện thoại viễn liên, cũng hoài câu nói… “Sáu, nói nghe nè…”.
      Mấy mươi năm trôi qua, mới ngày nào còn là cậu bé húi cua mà giờ đây em đã là ông nội, ông ngoại người ta. Dù là đứa em thứ bảy trong gia đình, dù sống trong môi trường vất vả với miếng ăn, cái mặc, nhưng nơi em, em trưởng thành trong hành xử với anh em, người thân và bạn bè. Tính trẻ trung vẫn còn đó. Tấm lòng nhân hậu, độ lượng, nhường nhịn của một Hướng đạo sinh ngày nào, em chưa quên ... Ở tuổi đời không còn trẻ nữa, nhưng em luôn trao ban cho người xung quanh sự hồn nhiên, yêu đời dù rằng đời sống của em có nhiều lo âu và chịu lắm thiệt thòi.

      “ Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh!” . Cái nòi thương yêu lo lắng cho anh em đôi bên, phe mình, phe ta rất tròn nên được bên vợ rất mực yêu thương. Em quá giống ba ở điểm này. Với bạn bè, em rất chí tình, những người bạn thân từ những ngày còn trong quân ngũ, đến nay mỗi người một phương cách biệt, nhưng tình thâm vẫn đậm đà.
Ngày Mười Hai, tháng Mười Hai, mấy mươi năm trước…

Trót sinh là Cánh Đại Bàng

Thả đôi chân xuống trần gian làm người

Hôm nay…

Sinh nhật đầy ấp nụ cười

Mười Hai tháng Mười Hai tươi thêm tình

      Mấy mươi năm xa nhau, hai chị em, mỗi người một phương trời. Nhờ mây đưa, gió chuyển giùm…đến tận bên kia bờ đại dương, trao đến em những lời chân thành, mộc mạc này, làm quà trong ngày sinh nhật…rằng
      Chị rất nhớ em! Hiệp ơi.

Kim Phượng
12.12.2009