Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2016

Thời Gian Vô Tình



Bài Xướng:

Thời Gian Vô Tình

Mấy mùa phượng nở mấy mùa xa
Có thấu cùng chăng nỗi nhớ nhà
Ngơ ngẩn trời tây hồn cố xứ
Lạc loài đất mẹ khúc thương ca
Sông Tiền uốn khúc xuôi mình nhớ
Cửa Tiểu thuận dòng theo biển ra
Con sóng dạt bờ không định hướng
Thời gia chồng chất tuyết sương pha

Kim Phượng
***
Nhớ Quê Hương


Cất bước lên tàu vượt biển xa,
Bao nhiêu kỷ niệm nhớ quê nhà.
Trời Tây xứ lạ đôi dòng lệ,
Đất Tổ thân quen một khúc ca...
Nước mặn đồng chua nay hạn hán,
Sông Tiền, Cửa Tiểu cạn phèn ra...
Nguyên nhân thủy điện ngăn nguồn thượng,
Xót dạ đau lòng tóc muối pha!
Mai Xuân Thanh
Ngày 12 tháng 04 năm 2016
***
Nhớ Songkhla

Vừa đến xứ người bỗng xót xa,
Bên kia phương ấy nước non nhà.
Songkhla sóng trắng rì rầm vỗ,
Quán cóc nhạc buồn não nuột ca.
Tin tức người thân mòn mõi ngóng,
Lòng quê bãi vắng thẩn thờ ra.
Chỉ cần vài tháng ôm sầu nhớ,
Đã thấy mái đầu tóc muối pha.

Mailoc
4-12-16
***
Em Còn Nhớ

Em bước lên tàu có xót xa
Em đi có nhớ đến quê nhà
Sân trường một thuở vang lời hẹn
Gốc phượng nay hè bặt tiếng ca
Giữa biển mông mênh thêm dạ rối
Nơi tim vương vấn đẫn người ra
Hai phương còn nhớ "Thề Non Nước"
Để tóc bây giờ đã tuyết pha.

Quên Đi
***
Họa Vận


Biết Đến Bao Giờ?...


Cất bước lên tàu dạ xót xa,
Chân đi lòng vẫn luyến tình nhà.
Xứ người luôn ngóng về quê mẹ,
Trường cũ xa rồi những tiếng ca.
Biết đến bao giờ... thôi cách biệt?
Những mong có lúc... mặc vào ra!
Bốn mươi năm lẻ luôn canh cánh...
Vượt biển nên giờ tóc...muối pha!

Đỗ Chiêu Đức
Tháng 4-2016
***
Niềm Đau Còn Mãi

Bốn mốt mùa hè đã cách xa
Đau thương biến cố ngập quê nhà
Người đi khắc khoải tim hờn tủi
Kẻ ở nghẹn ngào khúc hận ca
Quyến thuộc chia lìa tìm chẳng thấy
Bạn bè ly biệt kiếm không ra
Luỵ bi chất ngất trong tâm khảm
Mái tóc trên đầu sương tuyết pha.

Phương Hà
***
Thời Gian Vẫn Vô Tình


Xa cách bao mùa đã cách xa!
Mà sao vẫn nhớ mãi quê nhà?
Xứ người luôn sống đời cô lữ
Đất Mẹ bao giờ bắt nhịp ca
Mong ngóng tin vui nào chả thấy
Trông chờ Xuân mới sẽ tràn ra
Thời gian trôi chảy vô tình thế!
Chồng chất tuổi đời tóc bạc pha

Song Quang
***
Thợ Đóng Hòm Từ Thiện


Đoạn cuối đường Hòe chẳng mấy xa
Nên luôn tìm học chỗ không nhà
Âm giai lặng lẽ kinh vô tự
Nghĩa lý thâm trầm khúc Thánh ca
Ai khổ cần thuyền thô cứ chở
Tay già ghép ván tạp cho ra
Thời gian sau trước chưa xong bữa!
Vô hữu vô vô tiêu muối pha

Cao Linh Tử
15/4/2016


Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2016

Vòng Tay Dĩ Vãng



Cõi lòng quạnh quẽ riêng mình biết
Hẹn ước trăng thề mảnh vỡ đôi
Người đã đi không lời giã biệt
Đau thương đầy đợi tháng ngày vơi

Bờ ngôi ngọt chuốc lời cay đắng
Hương vị yêu mi thấm lệ cay
Tình lỡ xa vòng tay dĩ vãng
Ngõ hồn hoang lạnh dấu yêu xưa

Đêm còn đây vết thương tình ái
Mơ một lần trông thấy mặt nhau.

Kim Phượng

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2016

Bạch Đằng Giang - 40 Years Thank You Australia

Mây nước thiêng liêng còn ghi nhớ rành
Thời liệt oanh của bao người xưa trung chánh
Vì yêu nước Nam vui lòng hiến thân
Liều mình ra tay tuốt gươm bao lần




Họp Ca: Liên Ca Đoàn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam - TGP Melbourne
Thực Hiện: Yen Nguyen

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2016

Thương Hoài Ngàn Năm



Tinh đầu là tình cuối người ơi
Xưa nay thành bại cũng do Trời
Người không cầu sao mà lại được
Kẻ mong chờ chỉ hoài công thôi
Tình thủy chung là tình bất diệt
Nghĩa keo sơn vàng đá khôn rời
Mái ấm duyên ưa tình thắm lại
Ngàn năm thương hoài trọn kiếp không vơi

Bác Thân

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016

Mẹ Việt Nam Ơi


Mẹ Việt Nam ơi nửa đời chưa ráo lệ
Mơ ngày về mẹ kể chuyện Trường Sơn
Tìm cha con trên khắp mọi nẻo đường
Dù một nắm xương tàn còn sót lại

Đôi chân bước nặng oằn đeo nỗi nhớ
Dọc lối mòn sỏi đá tận u linh
Ngày lặn lội đêm trở mình sương phụ
Chập chờn nghe gió hú đỉnh hoang sơ

Từ xuân mới chí thu vàng trở lá
Qua mấy mùa kêu ra rả tiếng ve
Lầm lũi đi dưới trời đông khắc nghiệt
Cố tìm cha cõi thăm thẳm tìm cha

Mấy trăng tàn băng mình trong sương đục
Hồn chinh nhân lòng chinh phụ sắt son
Lệ buốt tim vẫn căng đầy nguyện ước
Mơ bóng hùng ngạo nghễ thưở xa xưa

Đàn chim muộn giục đưa nhau về tổ
Bơ vơ trời mẹ chưa hổ danh cha
Thác hiên ngang bên sóng đời cuồng nộ
Sống kiêu hùng dâng trọn máu cạn khô

Mẹ Việt Nam ơi mơ một lần ngái ngủ
Bên vai gầy mẹ gánh đủ chờ mong
Đôi mắt mẹ những năm ròng máu lệ
Rơi âm thầm ố nhạt vách Trường Sơn

Kim Phượng

Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2016

Tạp Ngâm Kỳ 2 - 雜吟其二 - Nguyễn Du - 阮攸


雜吟其二 Tạp Ngâm Kỳ 2

龍尾江頭屋一間         Long Vĩ giang đầu ốc nhất gian,
幽居愁極忽知歡         U cư sầu cực hốt tri hoan.
達人心境光如月         Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt,
處士門前青者山         Xử sĩ môn tiền thanh giả san.
枕畔束書扶病骨         Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt.
燈前斗酒起衰顏         Đăng tiền đấu tửu khởi suy nhan.
灶頭終日無煙火         Táo đầu chung nhật vô yên hoả,
窗外黃花秀可餐。     Song ngoại hoàng hoa tú khả xan.

                    阮攸         Nguyễn Du

Dịch nghĩa:

Đầu sông Long Vĩ có một căn nhà,
Người ẩn ở đó đang buồn cực độ, bỗng trong lòng thấy vui.
Cõi lòng người khoáng đạt, sáng tỏ như vầng trăng,
Trước cửa nhà xử sĩ toàn là núi xanh.
Cạnh gối, có chồng sách đỡ tấm thân bệnh tật,
Trước đèn, uống chén rượu cho sắc mặt tiều tuỵ tươi tỉnh lên.
Suốt ngày, bếp không đỏ lửa,
Ngoài cửa sổ, đoá cúc vàng tươi tốt có thể ăn được.

Dịch Thơ:

Đầu Long Vĩ một gian nhà lá ,
Ẩn cư buồn bỗng hóa vui sao .
Cõi lòng thanh thoát nguyệt lào ,
Trước nhà xử sĩ núi cao xanh màu .
Gối đầu sách , đỡ đau xương cốt ,
Rượu bên đèn mặt tốt tươi da .
Lạnh tanh bếp núc ngày qua ,
No lòng đỡ bữa hoàng hoa hiên ngoài


Mailoc
***
Các Bài Dịch Khác:

Ẩn Cư Đầu Sông Long Vĩ

Long Vĩ đầu sông một mái nhà,
Buồn hiu ẩn sĩ bỗng vui à !
Như trăng tỏ rạng lòng thanh thản,
Tợ núi cao xanh trước cửa ta.
Xương cốt ê chề nên gối sách,
Rượu ngon đèn sáng mặt hồng da.
Bếp sao lạnh ngắt ngày không lửa,
Đại đóa vàng song đỡ dạ qua !


Mai Xuân Thanh
***
Long Vĩ đầu sông, một mái nhà
Người đang buồn khổ bỗng vui ra
Trong lòng rạng rỡ trăng bừng sáng
Trước cửa xanh ngời núi trải xa
Lưng mỏi, sách kê làm gối dựa
Sắc suy, rượu uống để tươi da
Suốt ngày bếp lạnh không mồi lửa
Khóm cúc ngoài sân lót dạ qua.


Phương Hà phỏng dịch
***
Đầu sông Long Vỹ nhà một mái
Đang buồn ở ẩn lại vui khan
Hiểu thông lòng tựa trăng ngàn
Trước thềm kẻ học rở ràng non xanh
Đau lưng sách chất quanh đỡ mỏi
Mượn rượu nồng mặt khỏi sắc phai
Bếp kia chẳng lửa suốt ngày
Cúc vàng ngoài cửa ăn ngay no lòng


Quên Đi
***
Tạp Ngâm Kỳ 2

Long Vĩ đầu sông một mái tranh
Kẻ buồn ở ẩn chợt vui nhanh
Người thông hiểu lý dường trăng tỏ
Hiền sĩ quanh nhà tợ núi xanh
Kê sách ngã lưng hòng đỡ mỏi
Cạn ly mượn rượu ngó an lành
Tàn tro bếp rụi cần chi nhóm
Hoa cúc no lòng dẫu lạnh tanh


Kim Phượng

Thứ Năm, 21 tháng 4, 2016

Tạp Ngâm Kỳ 1- 雜吟其一 Nguyễn Du 阮攸


Cùng Bạn ,
Cuối tuần , trời Cali đang đắm chìm trong làn sương mờ ảo dưới làn mưa xuân phơn phớt cảnh vật nên thơ không thể tả.Trong thơ phòng đọc lại vài bài thơ của Cụ Nguyễn Du lúc người về ẩn dưới chân núi Hồng ở quê nhà khiền lòng tôi cảm khái vô cùng . Xin chia sẻ cùng Vườn Thơ Thẩn và các bạn thân để quên một phần nào nỗi bùi ngùi tháng Tư Đen sầu thảm trong lòng từng người chúng ta..
Nguyễn Du ( 1765-1820), tác giả Truyện Kiều, đệ nhất thi phẩm trường thiên của văn học Việt Nam, ngoài ra còn có 3 tâp thơ chữ Hán, trong đó Thanh Hiên Thi Tập (78) bài chia ra làm 3 phần:
A-  Mười Năm Gió bụi ( 1786-1795), thời gian lẫn trốn ở Quỳnh Côi
B-  Dưới Chân Núi Hồng (1796-1802) về ẩn quê nhà .
C-  Làm Quan Ở Bắc Hà 91802-1804)
Thân kính 
Mailoc

雜吟其一 Tạp Ngâm Kỳ 1
阮攸 Nguyễn Du

秋聲一夜渡藍河 Thu thanh nhất dạ độ Lam hà,
無影無形入我家 Vô ảnh vô hình nhập ngã gia.
萬里西風來白髮 Vạn lý tây phong lai bạch phát,
一窗秋色在黃花 Nhất song thu sắc tại hoàng hoa
百年哀樂何時了 Bách niên ai lạc hà thời liễu?
四壁圖書不厭多 Tứ bích đồ thư bất yếm đa.
庭植孤松高百尺 Đình thực cô tùng cao bách xích, 
不知青帝奈人何. Bất tri Thanh đế nại nhân hà?

Dịch nghĩa:

Tiếng thu bỗng một đêm vượt qua sông Lam,
Không bóng, không hình luồn vào nhà ta. 
Gió tây muôn dặm làm cho mái tóc ta thêm bạc, 
Sắc thu trên khóm hoa vàng đầy cửa sổ. 
Cuộc vui buồn trăm năm bao giờ mới hết? 
Sách vở đầy bốn vách, bao nhiêu cũng vừa. 
Trước sân, ta trồng một cây tùng cao trăm thước, 
Không biết chúa xuân sẽ làm gì được người trồng cây?

Dịch Thơ:

Tiếng thu vượt Nam Hà một tối ,
Không bóng hình men tới nhà ta .
Gió tây đầu bạc thêm ra ,
Song thu vàng nhuộm cúc hoa rực màu .
Đời khổ vui biết bao giờ sạch ,
Sách vở đầy bốn vách như không .
Ngoài sân trăm thước cô tùng ,
Chúa xuân ghen với người trồng hay sao ?

Mailoc
***
Các Bài Dịch Khác:

Tiếng thu đêm vắng vọng Lam giang,
Lặng lẽ vô hình nhập cửa hàn.
Muôn dặm gió tây lồng tóc bạc,
Ngàn hoa vàng ánh rực song ngang.
Trăm năm bất tận vui buồn bực,
Bốn vách thi nhân sách vở tràn...
Sân trước cây tùng cao ngất ngưởng,
Chúa xuân bỡn cợt kẻ trồng chăng!

Mai Xuân Thanh
***
Tiếng thu một tối vượt sông Lam
Chẳng dáng hình riêng, ghé đến thăm
Phơ phất gió Tây lùa tóc bạc
Dịu dàng song cửa phủ hoa vàng
Buồn vui cõi thế hoài đeo đẳng
Sách vở thư phòng mãi ngổn ngang
Sân trước cội tùng vươn bóng cả
Người trồng cười cợt chúa Xuân chăng?

Phương Hà phỏng dịch
***
Quên Đi nghĩ chữ "Thư" nơi câu 6 không phải là "Sách" mà phải là "Viết". "đồ thư" có nghĩ là "vẽ viết" như thế mới đối với "ai lạc (buồn vui) " của câu 5.

Dịch Thơ:

Tạp Ngâm Kỳ 1

Sông Lam đêm tối tiếng thu qua
Bóng chẳng hình không lẻn tận nhà
Muôn dậm gió tây phai trắng tóc
Cành bên song cửa bị vàng hoa
Vui buồn một kiếp bao giờ hết
Viết vẽ đầy gian mới tạm là
Sân trước tùng cao trăm thước mộc
Chúa xuân trông thấy nghĩ gì ta.

Quên Đi
***
Tạp Ngâm Kỳ 1

Đêm vượt sông Lam thu chợt tới
Bởi vô hình lẻn đến nhà thưa
Gió tây tóc trắng phai màu nhuộm
Cửa sổ hoàng hoa ửng sắc đưa
Vui trọn kiếp người đâu đã dứt
Chữ đầy bốn vách mấy cho vừa
Sân ngoài độc nhất tùng cao vút
Biết chúa xuân đà nghĩ đến chưa

Kim Phượng

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016

Vết Chàm Tháng Tư


Tròn trăng mười sáu mi ngoan
Trùng dương dậy sóng mộng tàn ước mơ
Vết chàm hằn dấu nhuốc nhơ
Tháng Tư vùi lấp ngây thơ tuổi đời

Kim Phượng

Thứ Ba, 19 tháng 4, 2016

Chuyến Đò Vĩ Tuyến



Bao giờ nối lại đôi bờ
Con đò gác mái đợi chờ người thương
Lưu tình gợn sóng buồn vương
Bóng chàng khua nước lơi buông tay chèo
Ước nguyền vời vợi trăng treo
Chuyến Đò Vĩ Tuyến còn neo hẹn thề
Dòng sông bện mối duyên quê
Thanh âm mái đẩy tìm về bến xưa



Kim Phượng
8.7.2013
Cảm tác từ nhạc phẩm Chuyến Đò Vĩ Tuyến của Nhạc Sĩ Lam Phương



Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016

Tìm Hiểu Về Thể Thơ Hát Nói



Hát Nói là một bộ môn nghệ thuật có từ xưa. Theo nghiên cứu gần đây, Hát Nói có thể xuất hiện từ thời vua Lê Thánh Tôn (1470-1497). Ngày nay, Hát Nói được công nhận là một bộ môn nghệ thuật cần phải bảo tồn của dân tộc ta.
Hát Nói là một trong các lối hát ả đào hay đào nương ca. Hát ả đào gồm những lối ca trù do đào nương (hoặc cô đào) hát, đối với lối hát trai hay Hà nam do giáp công (hoặc kép) hát.
Hát ả đào kể có nhiều lối như dâng hương, giáo trống, gửi thư, thét nhạc, vân vận. Nhưng chỉ có lối hát nói là thông dụng nhất là có văn chương lý thú nhất.
Hát nói có thể coi là một biến thể của hai thể lục bát và song thất.

Đủ khổ, dôi khổ và thiếu khổ.
Mỗi bài hát nói chia làm nhiều đoạn gọi là khổ bài. Mỗi khổ có bốn câu, trừ khổ cuối chỉ có 3 câu. Theo số khổ, hát nói chia làm ba thể:
1) Đủ khổ là những bài có ba khổ (khổ đầu 4 câu, khổ giữa 4 câu, khổ xếp 3 câu) cộng là 11 câu. Thể này là chính thức.
2) Dôi khổ là những bài có hơn ba khổ (khổ dôi ra là khổ giữa)
3) Thiếu khổ là những bài thiếu một khổ (thường là khổ giữa) chỉ có 7 câu.
Hai thể sau là biến thức.

1.Đủ khổ
Các câu trong bài đủ khổ. Theo tiếng nhà nghề, 11 câu trong bài đủ khổ có tên riêng là:
Khổ đầu: Khổ mở lời, gợi ý. Hai câu 1-2 là lá đầu; hai câu 3-4 là xuyên thưa. 
Khổ giữa: Diễn tả nội dung bài hát nói. Hai câu 5-6 là thơ; hai câu 7-8 là xuyên mau .
Khổ xếp: Phần kết luận bài. Đặt biệt, câu 9 là dồn; câu 10 là xếp; câu 11 là Keo. Câu Keo là câu kết thúc ý của toàn bài.

Thí dụ:
Ơi Người Thương Cũ của Quên Đi 

Ơi này người thương cũ
Mớ bồng bông gỡ rối sao đây
Bao tháng năm sương gió dạn dầy
Vừa gặp lại hồn như chao đảo
Nhất ngộ hữu duyên tình tất đáo
Đa lai vô phận mộng nan thành 
Mắt nhìn nhau ta tóc chẳng còn xanh
Em cũng thế má hồng giờ phai nhạt
Nhưng kỷ niệm đâu thể nào mất mát
Đúng không em chuyện dĩ vãng một thời
Thì nay bạn hữu trong đời.

Số chữ trong câu hát nói:
Số chữ không nhất định. Thường đặt những câu 7,8 chữ; nhưng có khi đặt những câu ngắn hơn chỉ cỡ 5 chữ, hoặc dài tới 12, 13 chữ.
Duy có câu cuối bao giờ cũng đặt 6 chữ và hai câu 5-6 đặt thành hai câu thơ thì phải theo thơ ngũ ngôn (5 chữ) hoặc thất ngôn (7 chữ). Nhưng hai câu 5- 6 không đặt theo thơ mà có số chữ so le cũng được.

Cách gieo vần trong bài hát nói.
Cách gieo vần phải theo các lệ sau này:
1. Trong bài hát nói, dùng cả hai thứ vần; vần bằng và vần trắc. Khi nào trong một câu đang vần bằng đổi sang vần trắc hoặc trái lại thế, thì vừa có yêu vận và cước vận.
Những câu ấy là các câu chẵn, trừ câu thứ sáu là câu thơ nên chỉ có cước vận thôi.
2. Trong mỗi khổ, cước vận của câu đầu và câu cuối phải dùng tiếng trắc, cước vận của hai câu giữa phải dùng tiếng bằng. Còn yêu vận của câu thứ hai thì dùng tiếng trắc mà của câu thứ tư thì dùng tiếng bằng để có thể chuyển vần trắc sang vần
bằng hoặc vần bằng sang vần trắc được.
3. Yêu vận gieo vào chữ cuối đoạn thứ nhì

Thí Dụ 1: "Nợ Nam Nhi" 
Đây là bài Hát Nói đủ khổ, sử dụng cả Yêu Vận lẫn Cước Vận

Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái 
Cái công danh là cái nợ nần 
Nặng nề thay hai chữ "quân thân" 
Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ 
Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt 
Trót đem thân thế hẹn tang bồng 
Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung 
Hết bốn chữ "trinh trung báo quốc" 
Nghiêng mình những vì dân vì nước 
Túi kinh luân từ trước để về sau 
Nghìn thu một tiếng công hầu

Thí dụ 2: Chí Nam Nhi của Nguyễn Công Trứ
Đây cũng là bài đủ khổ, nhưng hai câu thơ lại đưa lên đầu bài Hát Nói. Chỉ sử dụng Cước
Vận:

Thông minh nhất nam tử
Yêu vi thiên hạ kỳ (1)
Trót sinh ra thì phải có chi chi,
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
Đố kỵ sá chi con tạo,
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
Đã xông pha bút trận, thì gắng gỏi kiếm cung,
Cho rõ mặt tu mi nam tử.
Trong vũ trụ đã đành phận sự,
Phải có danh mà đối với núi sông.
Đi không, chẳng lẽ về không ?

Luật bằng trắc trong bài hát nói.
Đại khái luật bằng trắc các câu trong mỗi khổ bài hát nói là như sau:
(những chữ thường) không cần theo đúng luật, theo lệ (nhất, tam, ngũ bất luận):

Câu thứ nhất: t T b B t T
thứ nhì: b B t T b B
thứ ba: b B t T b B
thứ tư : t T b B t T
Lưu ý: Câu đầu và câu cuối theo một luật vì hai câu ấy đều gieo vần trắc; hai câu giữa đều theo một luật vì hai câu ấy đều gieo vần bằng.
Lời chú:

1. Khổ xếp chỉ có ba câu thì theo luật của ba câu đầu kể trên

2. Những câu 5-6 và những câu khác trong bài hát nói, nếu đặt thành câu thơ, thì phải theo đúng luật thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.

3. Những câu 6 chữ theo đúng luật kể trên. Còn những câu dài hơn 6 chữ thì, đói với việc ứng dụng luật ấy, phải chia làm ba đoạn con, mỗi đoạn 2 chữ, hoặc 3, 4 chữ hay dài hơn nữa. Trong mỗi đoạn, chỉ kể chữ cuối là phải theo luật bằng trắc, những chữ trên gác ra ngoài không kể, muốn đặt tiếng gì cũng được .

4. Những câu 4, 5 chữ chỉ chia làm hai đoạn thì đoạn thiếu là đoạn đầu không kể, còn hai đoạn dưới theo đúng luật. 
Thí dụ:
Câu đầu bài Chơi thuyền Hồ Tây của Nguyễn Khuyến:
Thuyền(b) lan(b) nhẹ(t) nhẹ(t).
Câu đầu bài Cái thú say rượu của Nguyễn Công Trứ (?)
Say (b) chưa?(b) say(0) mới(t) thú(t).

5. Những câu lấy chữ sẵn không theo đúng luật bằng trắc. Thí dụ: Câu thứ hai của khổ xếp trong bài "Mộng Sự Với Chân Thân (Thú Nhàn?)" của Cao Bá Quát
.....
Gõ nhịp lấy đọc câu "Tương Tiến Tửu"
Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai. Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.(*)
Làm chi cho mệt một đời

(*) Câu này là câu lấy chữ sẵn ở trong bài Tương tiến tửu của Lý Bạch)

Lời chú:
"Lệ gieo vần và luật bằng trắc tuy như đã kể trên, nhưng một đôi khi nhà làm văn không theo đúng hẳn cũng được, miễn là câu đặt có thể hát lưu loát thì thôi."

II. Dôi khổ ( Dư Khổ)
Cách làm bài hát nói dôi khổ.
Trong những bài dôi khổ, khổ đầu, vẫn ở trên, khổ xếp vẫn ở dưới, còn khổ giữa thì làm dôi ra thành hai ba khổ hoặc nhiều hơn nữa tùy ý.
Trong những khổ dôi ra, số câu, số chữ, cách gieo vần và luật bằng trắc cũng theo như các khổ chính.
Thí dụ: Phong cảnh Hương Sơn của Chu Mạnh Trinh

Mưỡu: 
Đàn thông phách suối vang lừng, 
Cá khe lắng kệ, chim rừng nghe Kinh. 
Hát nói: 
Bầu trời, cảnh bụt, 
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay. 
Kìa non non, nước nước, mây mây, 
Đệ nhất động hỏi là đây có phải? 
Thỏ thẻ rừng Mai chim cúng trái, 
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh. 
Thoảng bên tai một tiếng chày kình, 
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng. 
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng, 
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh. 
Nhác trông lên, ai khéo vẽ hình: 
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt. 
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt, 
Chập chờn mấy lối uốn thang mây. 
Chừng giang sơn còn đợi ai đây, 
Hay tạo hoá khéo ra tay sắp đặt? 
Lần tràng hạt niệm "Nam mô Phật", 
Cửa từ bi công đức biết là bao. 
Càng trông, phong cảnh càng yêu!

III. Thiếu khổ
Những bài thiếu khổ. Một đôi khi bài hát nói thiếu hẳn đi một khổ, thường là khổ giữa, chỉ còn lại có 7 câu.

Thí dụ :
Tiễn biệt

Ngán cho nỗi xoay vần thế cục,
Sum họp này chả bỏ lúc phân ly!
Hởi ông tơ! Độc địa làm chi!
Bắt kẻ ở người đi mà nỡ được!
Thôi đã trót cùng nhau nguyện ước,
Duyên đôi ta chẳng trước thì sau,
Yêu nhau nhớ lấy lời nhau!
Cung Thúc Thiêm

IV. Mưỡu

Định nghĩa.
Mưỡu là những câu làm theo thể lục bát đi kèm với bài hát nói, hoặc ở trên (mưỡu đầu), hoặc ở dưới (mưỡu hậu).
Không phải bài hát nói nào cũng có mưỡu; có nhiều bài không có. Lại có bài chỉ có mưỡu đầu hoặc mưỡu hậu; có bài có cả mưỡu đầu và mưỡu hậu.

Mưỡu Đầu.
Mưỡu đầu có thể đặt một cặp câu lục bát (Mưỡu đơn) hoặc hai cặp câu lục bát (mưỡu kép). Những câu mưỡu đầu bao giờ cũng đặt trùm trên bài hát nói. Câu mưỡu cuối không phải hiệp vần với câu đầu bài hát nói.
Bài "Phong Cảnh Hương Sơn" ở trên hai câu Lục Bát chính là Mưỡu Đầu Đơn

Mưỡu Hậu.
Mưỡu hậu bao giờ cũng là mưỡu đơn. Mưỡu hậu thường đặt ở giữa câu xếp và câu keo; nhưng cũng có khi đặt ở dưới câu keo, nghĩa là đặt hẳn xuống cuối bài hát nói. Nếu hai câu mưỡu hậu đặt xen vào giữa câu xếp và câu keo, thì câu lục phải ăn vần với câu xếp ở trên mà câu bát phải buông vần xuống cho vần câu keo ở dưới bắt vào. 

Thí dụ: Mẹ Mốc của Nguyễn Khuyến

So danh giá ai bằng mẹ Mốc,
Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra;
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xoá nhoà,
Làm thế để cho qua mắt tục.
Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc,
Tâm trung thường thủ tự kiên kim
Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm,
Giữ son sắt êm đềm một tiết.
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ,
Đắp tai ngảnh mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
Khôn kia dễ bán dại này!

Ngoài ra, một bài hát nói có thể vừa có mưỡu đầu và mưỡu hậu. 

Huỳnh Hữu Đức Biên Khảo
Theo "Việt Nam Văn Học Sử Yếu" của Dương Quảng Hàm

Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2016

Vết Hằn Tháng Tư


Bài Xướng: Vết Hằn Tháng Tư

Hè bắt đầu vào thành phố
Xuân dời bước xa nhường chỗ ve sầu
Thêm lần chạm phải vết đau
Rời quê mẹ cùng con tàu ly xứ
Thời gian qua là quá khứ
Cố gắng quên nhưng ký ức chối từ
Vết hằn bám chặc tháng tư
Nỗi buồn thân phận băm nhừ con tim.


Kim Oanh
***
Các Bài Họa:


Mất Thật Rồi
Mái trường đây kia con phố
Dấu tích xưa còn lỗ chỗ tình sầu
Tim như bừng dậy vết đau
Ước mơ đẹp đã theo tàu bỏ xứ
Hoa còn chăng khi xuân khứ
Chuyện trăm năm em do dự câu từ
Để anh ôm mộng riêng tư
Cuộc tình dĩ vãng nát nhừ trái tim.

Quên Đi
***
Bồi Hồi Nhớ


Nhà nàng cuối cùng dãy phố
Đời đẩy đưa lao tận chỗ biết sầu
Vai đời oằn gánh khổ đau
Gạt lệ nhỏ bước xuống tàu xa xứ
Hai chữ hoang mang hồi khứ
Chân bước đi lòng dụ dự chối từ
Quê người đêm mộng tương tư
Tình treo đầu gió nhão nhừ trái tim

Kim Phượng


Thứ Năm, 14 tháng 4, 2016

Thôi Đành Hạ Xa...!


Bài Xướng: Thôi Đành Hạ Xa…!

Hè đà ngoảnh mặt ra đi
Phượng rơi tan tác từ ly xa cành
Ve buồn rỉ rả cầm canh
Tình thiêm thiếp chết lệ quanh mi sầu
Thu về hiểu thấu Hè đâu
Thảng thốt vàng lá gọi màu hoàng hôn
Sắc hoa phủ kín mồ chôn
Thôi đành xếp giữ linh hồn hạ xa....

Kim Oanh
Hè Úc Châu
***
Các Bài Họa:

Thôi Đành!

Trời châu Úc tiễn hạ đi
Khiến cho cánh phượng buồn ly biệt cành
Để ai thao thức năm canh
Ôn tình năm cũ sầu quanh mối sầu
Người giờ biết ở nơi đâu
Lệ sa giọt nhớ nhạt màu môi hôn
Duyên xưa chẳng nỡ vùi chôn
Xuôi vào giấc mộng gởi hồn phương xa...

Quên Đi
***
Xa Rồi Một Mùa Hè


Ngày hè lặng lẽ qua đi
Xác hồng cánh phượng biệt ly lìa cành
Ngậm ngùi thao thức tàn canh
Nỗi lòng câm nín ẩn quanh giọt sầu
Hỡi người áo trắng xưa đâu
Thời gian cô quạnh nhạt màu môi hôn
Hương xưa dĩ vãng vùi chôn
Lật trang lưu bút gọi hồn phượng xa

Kim Phượng


Thứ Tư, 13 tháng 4, 2016

Xuân Hành - 春行 - Giả Đảo



Nói đến Hành, trong thơ xưa, thường là một loại thơ, tự sự, trữ tình, tự do, gần như nghĩ sao viết vậy, phóng túng, ít chịu gò bó theo một thể luật nhất định. Như, Đoản Ca Hành của Tào Tháo "Đối tửu đương ca/ nhân sinh kỷ hà / thí như triêu lộ / khứ nhật khổ đa ..." (Trước rượu nghêu ngao / đời người bao lâu / như giọt sương mai / ngày qua khổ nhiều...).Như ,Trường Can Hành cúa Lý Bạch :"Thiếp phát sơ phú ngạch / Chiết hoa môn tiền kịch / Lang kỵ trúc mã lai / Nhiễu sàng lộng thanh mai " (Tuổi thiếp tóc vừa xòa trước trán / đang chơi bẻ hoa đóng tuồng trước nhà / Chàng cỡi ngựa tre ngang qua / Nghịch ném mơ xanh vào đầy giường thiếp). Như, Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị: "Tầm Dương giang đầu dạ tống khách / phong diệp địch hoa thu sắt sắt/ chủ nhân há mã khách tại thuyền/ cử tửu dục ẩm vô quản huyền..." (mà Cụ Phan Huy Vịnh đã chuyển dịch là "Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách /quạnh hơi thu lau lách đìu hiu/ người xuống ngựa khách dừng chèo/ chén quỳnh mong cạn sớm chiều trúc ty ). Bài Xuân Hành của Giả Đảo đã là một trường hợp hiếm thấy, là một bài hành hay ,thanh thoát mà sâu lắng, được viết trong khuôn khổ một bài thơ Đường ngũ ngôn bát cú, cách luật nghiêm chỉnh! Tác giả thật không hổ danh được người đời truyền tụng là một nhà thơ "nhị cú tam niên đắc" (phải mất 3 năm mới làm được 2 câu thơ vừa ý). Ngày xuân đôi lời dông dài cho vui, xin được chia xẻ điều thú vị này với mọi người yêu chuộng thơ xưa. PKT 04/05/2016

Xuân Hành - Giả Đảo (793 - 865)

Khứ khứ hành nhân viễn
Trần tùy mã bất cùng
Lữ tình tà nhật hậu
Xuân sắc tảo yên trung
Lưu thủy xuyên không quán
Nhàn hoa phát cố cung
Cựu hương thiên lý tứ
Trì thượng lục dương phong

Dịch Xuôi: Xuân Hành
PKT 04/05/2016

Người đi là đi mãi / bụi đường mòn vó ngựa / tình lữ chiều nắng tắt / thoáng xuân trong sương mai / suối chảy qua quán trống vắng / hoa trôi từ cung xưa nào / nhớ về quê cũ giờ xa xôi quá / liễu xanh rủ bên hồ gió động lao xao.

Dịch Thơ:

Xuân Hành
(1) Hai bài ngũ ngôn cổ thể tháng 12 năm 2007
Bài 1:

Người đi còn mê mải
Quên ngựa lấm bụi đường
Chiều gợi sầu lữ thứ
Thoáng xuân buồn trong sương
Suối trôi bên quán trống
Hoa lạc từ trời nao
Quê xưa giờ xa quá
Liễu hồ xanh lao xao. 


Bài 2: 

Ra đi rồi đi mãi
Ngưa quen bụi đường xa
Chiều dậy sầu lữ thứ
Sương xuân buông nhạt nhòa
Quán vắng buồn soi nước
Tình ai theo hoa trôi
Quê trùng trùng cách trở
Gió liễu hồ chơi vơi 


(2) Bài đường luật ngũ ngôn bát cũ tháng 4 năm 2016

Một đi là mãi mãi
Bụi nản ngựa đường xa.
Chiều nắng tàn vương vấn
Sáng sương xuân nhạt nhòa.
Suối buồn qua quán trống
Hoa lạc nhớ cung xưa.
Quê cũ ngàn trùng cách
Liễu hồ gió nhẹ đưa.


Tri Khac Pham
***

Xuân Hành

Người đi đi bên trời lủi thủi
Vó câu dồn cuốn bụi trần gian 
Chiều về lòng khách miên man,
Sớm mai xuân sắc sương lan khói lồng 
Ngang quán vắng một dòng suối nhỏ
Cố cung buồn hoa nở nhàn an.
Lòng quê da diết dặm ngàn,
Bên hồ liễu biếc mơ màng phất phơ 

Mailoc phỏng dịch
***
Đi Đi Xuân Ơi!


Người đi xa xa mãi,
Dặm hồng ngựa mỏi mòn.
Bóng chiều nghiêng ngã xế,
Sương mờ sáng xuân non.
Suối buồn bên quán vắng,
Cổ cung hoa héo hon.
Nẻo về đâu quê cũ,
Liễu soi hồ gió hôn!


Mai Xuân Thanh
Ngày 05 tháng 04 năm 2016
***
春行                 Xuân Hành

去去行人遠, Khứ khứ hành nhân viễn,
塵隨馬不窮。 Trần tuỳ mã bất cùng.
旅情斜日後, Lữ tình tà nhật hậu,
春色早煙中。 Xuân sắc tảo yên trung
流水穿空館, Lưu thuỷ xuyên không quán,
閑花發故宮。 Nhàn hoa phát cố cung.
舊鄉千里思, Cựu hương thiên lý tứ,
池上綠楊風。 Trì thượng lục dương phong.

                         Giả Đảo

Xuân Hành

Người sao lại mãi đi xa
Bụi đường theo vó ngựa qua mịt mùng
Khách buồn chiều xuống mông lung
Màu xuân lạc giữa một vùng sương mai
Nước bên quán vắng xuôi dài
Hoa sầu cung cũ sắc phai hương tàn
Nhớ quê xa lắc dậm đàng
Bên hồ dương liễu ngỡ ngàng gió xuân.

Quên Đi
***
Xuân Hành

Người đi đi miệt mài xa
Dặm đường vó ngựa vụt qua bụi mù
Sầu lòng chiều nhạt âm u
Thoáng xuân bao phủ một vùng sương mai
Suối buồn quán vắng lắc lay
Cung xưa hiu hắt đọa đày đời hoa
Nghìn trùng nhung nhớ quê nhà
Xuân đi liễu rũ gió sa lệ hồ

Kim Oanh
***
Xuân Hành

Sao người cứ mãi xa đi
Ngựa mòn chân sải bụi thì mù bay
Bâng khuâng dạ khách cuối ngày
Sắc xuân phủ khói u hoài mùa sang
Nước vòng quán vắng xuôi ngàn
Hương phai cung cũ hoa tàn úa hoa
Nhớ thương nghìn dặm quê nhà
Bờ ao xanh liễu la đà gió đưa

Kim Phượng
***
Tả Mạn Xuân

Người đã ra đi là mãi mãi
Bụi mòn vó ngựa quãng đường xa
Nắng tàn vương vấn chiều buông xuống
Sương sớm nhạt nhoà xuân thoáng qua
Suối chảy miên man bên quán vắng
Hoa trôi lờ lững tự cung xa
Đường về quê cũ xa vời vợi
Gió nhẹ đưa cành liễu thướt tha.

Phương Hà phỏng dịch


Thứ Ba, 12 tháng 4, 2016

Tình Đã Vụt Bay



Cảm tác từ Tình Đã Vụt bay của Vũ Đức Tuấn

Đêm xuống dần nghe hồn khoắc khoải
Lạnh bờ môi buốt giá đôi vai
Nụ hồng phai sắc vùi đơn lẻ
Lỗi hẹn thề tình đã vụt bay

Kim Phượng


Nhấp Link Tình Đã Vụt Bay: Vũ Tuấn Đức - Trần Thái Hòa


Thứ Hai, 11 tháng 4, 2016

Mai Muộn Sau Hè


Ảnh từ Cao Linh Tử

Mai Muộn Sau Hè

Lơ thơ mấy đóa nở ngang đầu
Núp bóng tre già pha sắc nâu
Nắng hạ huy hoàng không bướm lượn
Vườn sau inh ỏi lũ ve sầu
Can chi lặt lá vui ngày Tết
Há phải gồng mình lụy bóng câu
Mai chẳng cầu danh mang tiếng muộn
Góc hè tự tại có sao đâu.

Cao Linh Tử
3/4/2016
***
Nắng Hạ


Ve Kêu Khúc Nhạc Sầu!
Lác đác vài bông trổ quá đầu,
Nhành cây khoe sắc điểm màu nâu.
Hè sang oi bức mơ màng bướm,
Nắng Hạ ve kêu khúc nhạc sầu...
Xuân tết lâu rồi, cây lặt lá,
Búp đầy sớm nở , viết đôi câu...
Mặc ai lộ diện vì danh lợi,
Tự tại khiêm nhường... chẳng dám đâu!

Mai Xuân Thanh
Ngày 03 tháng 04 năm 2016
***
Vận Nước


Nghĩ tới càng thêm bạc mái đầu 
Tháng Tư sầu thảm phủ màu nâu 
Núi sông cây cỏ viền tang trắng
Cố quốc đỗ quyên nhỏ lệ sầu 
Kẻ thắng thù dai hờn mỗi lúc
Người thua sử thấm viết từng câu 
Anh linh tiên tổ ngàn năm vẫn,
Vận nước một thời chẳng mãi đâu!

Mailoc
***
Tình Muộn


Tóc trắng dần che phủ mái đầu
Đồi mồi bao đốm điểm da nâu
Tuổi cao vui với tình đang ngự
Thấp thập an nhiên hết luỵ sầu
Tỏ ý vườn thơ đôi nét chữ
Trải lòng thi hữu kết vài câu
Văn chương mới thật trang tình mới
Hoa bướm thưa rằng chẳng có đâu...

Quên Đi
***
Hè Muộn


Êm ái vòng tay tựa gối đầu
Ngắm nhìn sắc lá chuyển sang nâu
Hồn thu phơi phới đang xây mộng
Nắng hạ lao xao chợt biết sầu
Hoa phượng muộn màng còn mấy cánh
Bài thơ dang dở mới đôi câu
Mấy mùa có phượng tin âm bặt
Thư muốn trao người chẳng thấy đâu

Kim Phượng
***
Tình Thơ Ảo Ảnh


Cứ tưởng giờ đây đã bạc đầu!
Tình thơ hết ý chuyển màu nâu
Nào hay vay mượn mà say đắm
Chẳng lẻ không thay nổi mối sầu?
Ảo ảnh đâu ngờ lòng vẫn nặng
Yêu thương chi lắm bởi vài câu
Đường thi,lục bát còn mê mẩn
Giấy trắng vài trang tốn kém đâu!

Song Quang

Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2016

Mùa Cỏ May


Bông cỏ đã dính đầy quần trận khi chàng bước đi giữa lối ngập đầy cỏ dại. Buổi chiều như một cơn mộng thật êm. Không có một tiếng động, dù là tiếng gió ru hay tiếng chim ríu rít. Chàng đang nghe niềm rung động dịu dàng len nhẹ vào tâm hồn chàng. Hàng muồng với những chùm hoa muồng màu vàng đã trở nên sậm hơn dưới màu nắng quái. Những cây bông sứ với mùa hoa đã qua, để còn lại trên cành lơ thơ vài chiếc bông trắng lẻ loi. Những thân cây cổ thụ mà chàng không biết tên vươn lên trên cao, in trên một nền trời bàng bạc mây xám. Trước mặt chàng, bãi cỏ phủ một mầu tim tím của bông cỏ may. Bông cỏ may. Tự nhiên chàng nhớ đến cô. Chàng cúi đầu xuống gỡ những chiếc bông bé xíu bám dính trên vải. Chàng lại ngỡ như bắt gặp lại những kỷ niệm ngọc ngà cũ.
Vâng, cũng nơi này, một lần nào đó

..Buổi sáng đã đầy nắng. Các học sinh đã lũ lượt vào nhà thờ. Chàng thấy cô vẫn đứng ở ngoài sân. Hình như cô đang lưỡng lự. Chợt cô chạy xuống bậc tam cấp thoát ra khỏi khuôn viên nhà thờ. Lập tức chàng cũng hăm hở đuổi theo. Hành động bí mật của cô làm chàng thú vị. Chàng đuổi đến đầu rạp chiếu bóng thì gặp cô. Cô đang ngước đôi mắt say mê nhìn tấm quảng cáo sặc sỡ in hình Khương Đại Vệ đá một cú song phi và Lý Thanh mù hai con mắt. Chàng đứng bên cạnh, thốt lên vẩn vơ:
“Ghê thiệt. Trốn lễ, trốn nhà thờ, trốn soeur, tội ghê gớm lắm”.
Cô quay lại, mắt mở lớn, ngạc nhiên:
“Ê, cái ông này”
Giọng cô lơ lớ. Bây giờ chàng mới nhận ra cô không phải là người Kinh mà là người thiểu số. Ở cô, có lẽ là sự pha trộn của hai dòng máu, đúng hơn. Thật vậy, ở chiếc mũi dọc dừa hơi cao, ở dáng dấp Tây phương trên cử chỉ, cách ăn mặc… Chàng lại hỏi:
“Có phải cô bé trốn lễ để đi chơi phố không?”
“Việc gì đến ông mà ông hỏi?”
“Để tôi về mách soeur”.
Đôi mắt của cô lại một lần nữa nhìn chăm như dò xét chàng. Đôi mắt ấy toả ra cái gì vừa ranh nghịch vừa man dại. Chàng lại hỏi vu vơ:
“Cô bé thích Vương Vũ hay Khương Đại Vệ?”
“Khương Đại Vệ!”
Cô trả lời dửng dưng rồi tiếp tục nhìn Khương Đại Vệ đang múa kiếm phi thân.
“Vương Vũ đánh ác lắm chứ?”
“Nhưng không đẹp trai bằng Khương Đại Vệ”.
“Còn Lý Thanh?”
“Không. Trương Cương Thanh mới là tài tử đóng ác”.
“Cô bé là một cây si xi nê có cỡ đấy nhé”.
Cô lại bĩu môi. Đôi môi cô lúc nào cũng ươn ướt.
“Tôi si thì kệ tôi, mắc mớ chi ông ?”
“Chữ ông già lắm. Tôi mới hai mươi mấy tuổi”.
“Hứ. Trông ông già như sáu mươi”.

Bây giờ cô mới thật tình cười. Đôi mắt cô long lanh rực rỡ. Nắng làm tươi thắm những mái ngói đỏ và những bờ vách, con đường. Chàng đề nghị:
“Cô bé coi xi nê không? Tôi đãi"
“Ông mời tôi?”
“Thôi đừng gọi là ông nữa. Tôi cảm thấy mình già lắm”.
“Thôi. Chú hén. Chú mời cháu?”
“Vâng. Chú mời cháu”.
Nhưng cô lại la lên khe khẽ:
“Mấy soeur đi chợ kia. Bọn mình vào ngay đi"
Cô cầm lấy tay chàng kéo vào giữa đám đông. Trông cô như một con sóc, con chồn tinh quái.

Bắt đầu từ đấy chàng có dịp gặp cô bé Ê Đê nhiều hơn. Nhà chàng trọ một mình, nên mỗi lần trốn ra khỏi nội trú, cô lại tìm nhà chàng. Hoặc xin tiền coi chiếu bóng. Hoặc ở lại nấu cơm nấu nước giùm chàng. Đôi khi cô còn bắt chàng dạy giùm mấy câu tiếng Pháp. Chàng viết lên giấy: H’Pery, je t’aime. Khi đọc xong cô lắc đầu nguây nguẩy:
Non, non. Parce que vous êtes mon oncle”. Trời ơi. Hélas ! Chàng kêu lên. Cô bé này quá ranh. Chàng không thể qua mặt cô được đâu.

Sự có mặt của người con gái thiểu số đã làm căn phòng trọ của chàng trở nên sinh khí. Cô đến cùng với những nhánh hoa để cắm vào trong bình thủy tinh. Khi thì hoa hồng, khi thì cúc vàng, khi thì lay-ơn hay thược dược. Cô đã hái trộm trong vườn hoa của trường. Cô khoe:
“Chú ơi. Hú hồn. Sáng nay ma soeur bắt gặp cháu trong vườn hoa. Ma soeur kêu lại, thấy áo cháu bám đầy phấn hoa”.
Cô nói với một trái tim thơ ngây và trong sáng. Như máu huyết chảy trong người cô.
Nhưng chàng tha thiết được nhìn cô trong một con người khác, trong chiếc yien đen tuyền, và trong chiếc áo cánh trắng, cùng với những vòng bạc hay đồng sáng long lanh. Chàng nói:
“H’Pery ơi, chú muốn cháu một lần đến đây với cái yien của dân tộc cháu”.
“Tại sao vậy, chú ?”
“Chú muốn thấy một cô gái Ê Đê xinh đẹp".
“Bộ chú muốn lắm sao?”
“Vâng. Chú muốn lắm”.

Cô đã chiều niềm mong uớc của chàng. Một đêm trăng cô xuất hiện với chiếc yien đen, chiếc áo cánh trắng, chiếc thắt lưng xanh, và những vòng đồng mang đầy trên đôi cánh tay. Chàng cầm tay cô cùng chạy ra bãi cỏ may. Cô tinh nghịch như một con sóc nhỏ chạy nhảy tung tăng. Cỏ may đã nở bông, một màu cà phê sữa, loang loáng dưới ánh trăng. Trên cao hằng hà tinh tú đan kết nhau như trên một tấm áo đầy ngập kim cương.
Bỗng nhiên cô cất tiếng hát:
Mlam mlam mngac hlăm adie Mtu ti năn mơh guhbi blir. Ciăng duah kă bit kkiêng lăn kâo yơr kngan knuă kâo yanh hruê ble. Anăn yơh jin ngo.
(Ban đêm trăng sáng quắc ở trên trời. Tinh tú nhấp nháy ở đấy nữa. Muốn tìm bốn phương tôi giang tay phải về phía Mặt trời mọc. Đó là phương Đông).

Dưới ánh trăng, người con gái như một chiếc bóng mờ ảo. Cô không còn là một cô gái của thị thành nữa. Cô đã trở lại con người thật của cô. Máu huyết sơn dã đã chảy trở lại. Cô đi đôi chân trần trên bãi cỏ may. Ánh trăng soi sáng gương mặt cô, làm lung linh đôi mắt, mái tóc và những vòng kim khí. Tiếng hát lạ, nhưng chàng có cảm giác là lời ca đang cuống quít cùng trăng sao tinh tú, cùng rừng núi bạt ngàn, cùng thần linh, ma quỉ. Cô tiếp tục cất tiếng hát. Từ bài này qua bài khác. Có lẽ cô đang hát lại bài ca mà mẹ cô đã một thời cất lên bên bờ suối hay trên những rẫy nương giữa bao la núi rừng vây phủ.

Cuối cùng, cô không còn hát nữa. Cô đến ngồi bên chàng. Nhỏ bé làm sao. Và cũng thật hiền từ làm sao. Chàng cầm lấy hai bàn tay cô, nhìn chăm vào hai vì sao nhỏ, rồi nói H’Pery đã cho chú một đêm tuyệt vời. Cháu đã giúp chú càng yêu mến một bài hát mà chú hằng ưa thích. Để chú hát tặng cho cháu nhé. Rồi chàng bắt đầu ca: Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi mây mờ buông xuống núi đồi và trong lòng buồn hơn ngoài trời…Ai về sau dãy núi Kim Bôi nhắn dùm tim tôi chưa phai mờ hình dung một chiếc thắt lưng xanh, một chiếc khăn màu trắng trong, một chiếc đồng sáng long lanh với nụ cười nàng quá xinh.

Đến một lúc nào đó, cô dựa đầu vào vai chàng. Và chàng vẫn để yên. Chàng vẫn tiếp tục thêm một bài hát khác. Một đêm trong rừng vắng, ánh trăng chênh chếch đầu ghềnh. Chàng nghĩ chàng đang ru cô ngủ.
Một lát sau, cô choàng dậy, đòi về. Cô sợ trường nội trú đóng cửa. Đến cột đèn sáng, cô thấy những bông cỏ may dính đầy trên quần. Cô la lên hốt hoảng:
“Chú ơi, chú gỡ dùm cháu. Cháu sợ ma soeur biết”
Chàng quỳ xuống, cố gắng gỡ ra từng ngọn bông li ti như những hạt thóc trên chiếc quần của cô. Chàng chậm rãi gỡ. Như thể mỗi chiếc bông cỏ may là mỗi hạnh phúc ngọc ngà mà chàng đã bắt gặp trên dòng đời lênh đênh của mình.

Trần Hoài Thư

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

Đò Tình - Tàn Xuân


Bài Xướng: Đò Tình

Người đi bỏ lại con đò
Quên lời vàng đá hẹn hò hôm nao
Vầng trăng vàng úa thương đau
Con tim âu cũng ngả màu thời gian
Đò tình ngược nước lỗi đàng
Hoa lòng nở vội chớm tàn hương xuân
Nào đêm những lúc bâng khuâng
Tình yêu rũ sạch nợ nần chi nhau
Trách ai khuấy nước đục ngầu
Dòng sông lặng lẽ ôm sầu thiên thu

Kim Phượng
***
Bài Họa: Tàn Xuân

Trông về thăm thẳm bến đò
Còn nghe văng vẳng câu hò nôn nao
Cho tim nhức nhối nỗi đau
Lời thề xưa... chỉ một màu dối gian?
Giờ đành chia cách đôi đàng
Quay đi... ngoảnh lại... đã tàn tuổi xuân!
Hè sang, tiếng Cuốc bâng khuâng
Vô duyên nên chẳng nợ nần với nhau
Trách chi dòng nước đục ngầu
Tang thương dâu bể... để sầu ngàn thu!

dovaden2010

Thứ Năm, 7 tháng 4, 2016

Vào Hè


Bài Thơ Xướng:

Vào Hè


Trời nắng chang chang chỉ muốn nằm
Bạn bè trốn nóng ngại đi thăm
Không gian hừng hực như nung lửa
Cây cối cằn khô đến quắt mầm
Nheo mắt nhìn trời, mây chẳng thấy
Vọc tay khuấy vũng, nước nào ngâm
Quạt lia phành phạch thay cơn gió
Giọng nói thều thào không vọng âm.


Phương Hà
***
Các Bài Thơ Hoạ:


Xuân Phân

Mùa xuân đau nhức quyết không nằm
Trổi dậy ra vườn bước đến thăm
Cây nhản trổ hoa chưa kết nụ
Mản cầu trụi lá đã ra mầm
Chim muông nhảy nhót tưng bừng hót
Ca khúc nhớ nhà rỉ rả ngâm
Xướng họa tìm vui ai có biết
Bên trời rơi rụng mấy tri âm

Mailoc
***
1) Cali Vẫn Còn Xuân

Trời xuân ấm áp ít khi nằm,
Muốn đến nhà ai gọi hỏi thăm.
Cây cối đâm chồi non nảy lộc,
Vườn rau xanh mướt đậu ra mầm.
Cali thời tiết quanh năm đẹp,
Thung Lũng Tình Yêu sáo diễn ngâm.
Nghe nhạc trong xe qua quãng vắng,
Bên cầu tơ liễu nhớ tri âm...

2) Nắng Hạn

Chưa hết tháng ba nắng gắt, nằm,
Easter mùa vọng nghỉ đi thăm.
Chúa ơi sống lại mừng vui vẻ,
Thánh lễ con chiên đạo nẩy mầm.
Hóng mát tàng cây nghe gió gọi,
Ngồi chơi sáo nhạc giọng ai ngâm...
Mỗi người cây quạt nghe phành phạch,
Muốn nói yêu em...chẳng phát âm!


Mai Xuân Thanh
Ngày 19 tháng 03 năm 2016
***
Xuân Giá

Vào xuân trời dợm sáng chưa nằm,
Hết lạnh bạn bè lại đến thăm.
Ong bướm vườn sau đà lượn dáng,
Cỏ cây sân trước đã ươm mầm.
Ngày trông chim chóc líu lo hót
Đêm lắng côn trùng ra rả ngâm.
Trường học nghỉ xuân, giờ lại đổi,
Xuân tràn trời đất vọng tri âm !


Đỗ Chiêu Đức
03-18-2016
***
Đêm Xuân Dạo Mát

Đêm Xuân mát mẻ chửa đi nằm
Thả bộ công viên muốn ghé thăm
Ghế đá người ngồi đà chật kín
Hàng cây cành lá đã xanh mầm
Trên trời lấp lánh ngàn sao sang
Dưới cỏ dế mèn rỉ rã ngâm
Làn gió từ đâu nhè nhẹ thổi
Trẻ con đùa giỡn mọi thanh âm


Lý Lệ MAI
***
Xuân Phân


Xuân đang xuân vẫn cớ chi nằm
Khoe sắc hoa còn bướm lượn thăm
Trước ngõ vườn cây đang nẩy lộc
Trong sân chậu cúc lại đơm mầm
Khoan thai tiếng sáo từ đâu vẳng
Gợi hứng ai người cất giọng ngâm
Đôi lúc vui xuân nào trọn vẹn
Bởi vì buồn vắng bạn tri âm


Quên Đi
***
Hạ Buồn


Trang lưu bút cánh phượng im nằm
Ve giục khách trần nhẹ gót thăm
Dõi bóng tri âm hoa nhạt sắc
Khắc tình tri kỷ nụ xanh mầm
Mấy ai nhớ phượng buông lời hát
Bạo kẻ lụy tình trổi giọng ngâm
Thương khúc ly tan mờ kỷ niệm
Tiếng ve còn đó chỉ dư âm


Kim Phượng

Sương Đêm Cô Đơn



Thơ cảm tác từ ảnh:


Sương khuya che mất đường về
Đèn vàng yếu ớt tứ bề lặng im
Người ơi, ta kiếm ta tìm
Sao không lời nói im lìm thế nao?

Nguyễn Cao Khải
***

Vén bức màn đêm một góc suơng
Lung linh hư ảo cuối con đuờng
Ai đợi ai chờ sau cánh cửa
Cho tôi về rủ sạch buồn thuơng


Khánh Hà
***

Ánh đèn vàng vọt giữa lòng đêm
Mờ mịt sương khuya những hạt mềm
Khơi nhớ liêu trai hồn thả mộng
Gợi buồn man mác cảnh buồn thêm


Kim Phượng
***
Nhập Nhằng Thời Gian


Sương khuya giăng kín tư bề
Đèn trăng ai thắp lối về ngỗn ngang
Đêm rơi sầu ắp tim ngăn
Tương lai quá khứ nhập nhằng tâm tư

Kim Oanh
***
Hư Không

Sương mù giăng mất lối,
Bơ vơ giữa đêm trường.
Tìm người sao chẳng thấy,
Lạnh buốt cả tâm hồn.
Phiêu bồng cõi hư không,
Người có nghe tiếng gọi.
Sao chẳng thấy hồi âm,
Tĩnh lặng, và......tĩnh lặng!


Phương Lan


Thứ Tư, 6 tháng 4, 2016

Từng Mùa Cô Phụ - Ấp Ủ Ước Mơ


Bài Xướng: 
Từng Mùa Cô Phụ

Xuân lòng cô phụ chết từ lâu
Ngậm đắng niềm riêng hạ thảm sầu
Thu chuyển mình cây đời khắc khoải
Mấy đông tàn mộng ước chìm sâu

Kim Phượng
***
Bài Họa : Ấp Ủ Ước Mơ

Lộc thỏa Xuân nồng ước đã lâu
Hoa chen vạt nắng Hạ vơi sầu
Thu vàng góp lá mơ tình tự
Ấp ủ Đông về mộng gối sâu

dovaden2010

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2016

Mù Lối - Thơ Kim Phượng - Hương Nam Diễn Ngâm



Thơ: Kim Phượng 
Diễn Ngâm: Hương Nam

Chúc Mừng Sinh Nhật Nguyễn Đắc Thắng


Bài Xướng: Sinh Nhật 64

Ngày sinh lại đến thảo ra gì?
Trí tưởng như chừng đã cạn đi?
Cảm ngại ngùng xưng đờ tiếng lão
Buồn vơ vẩn nghiệm nét đông thì*
Hàng U cổ hiếm dần thêm bội
Ngưỡng lục nay nhiều để thích nghi
Mắt tỏ thần an cầu hữu dụng
Men đời ấp ủ tạo vần thi!

Nguyễn Đắc Thắng

4/4/1954
* Mượn cụm từ “xuân thì” để dẫn ý. “Xuân thì” là (sức) đang trưởng thành. “Đông thì” đối lại là (sức) đang lão hóa.
***


Bài Họa: Mừng Sinh Nhật

Nhộn nhịp Vườn thơ bởi cớ gì
À ra sinh nhật gắng mau đi
Rượu mừng thi hữu dù cao tuổi
Phúc chúc hồn thơ vẫn dậy thì
Ai đó ngại già khi thú thiệt
Lời đây khen trẻ chớ đa nghi
Con tim cằn cỗi còn rung động
Giấy trắng xiêu lòng đón Cổ thi

Kim Phượng

Thứ Hai, 4 tháng 4, 2016

Hãy Giữ Lấy Thơ Lục Bát


Nỡ nào chặt khúc câu thơ
Ôi thôi lục bát bây giờ ra sao?
Nguyễn Du trông thấy lệ trào
Thấy thơ tàn phế mà ngao ngán lòng !
huuuuuuuuu
                                       Cao Linh Tử

Đọc mấy câu thơ Lục Bát trên của người bạn, tôi chợt thấy vui vì có người cùng cảm nghĩ như mình. Tôi cũng viết ngay mấy câu: 
Cũng vì tạo dáng bài thơ
Nên hình bóng cũ đến giờ thảm thay
Câu thơ người nỡ bẻ hai 
Khiến tình Lục Bát đêm ngày trở trăn
                                             Quên Đi
Sau đó, tôi vội tìm lại bài viết cách nay khá lâu, về vần đề này, được đăng trên một trang web trước đây tôi đã cộng tác:
Hãy Giữ Lấy Thơ Lục Bát
Học giả Phạm Quỳnh có một câu nói bất hủ :
" Truyện Kiều còn, tiếng Ta còn. Tiếng Ta còn, nước Ta còn " 
Truyện Kiều của Thi Hào Nguyễn Du được viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ Lục Bát, một thể thơ thuần tuý của Việt Nam. Đây là một thi phẩm văn học Việt Nam được giới thiệu rộng rãi trên thế giới.
Chỉ một tác phẩm văn học thôi, sao lại có ảnh hưởng đến sự tồn tại của cả một dân tộc, một quốc gia?
Một thi phẩm dù là tuyệt tác, cũng chỉ là một thi phẩm, không thể dính liền với cả một dân tộc nếu không còn thêm một lý do khác.
Lý do khác đó chính là thơ Lục Bát, một thể thơ quốc hồn quốc tuý của Việt Nam.
Sau đây là hình thức của thơ Song thất Lục Bát và Thơ Lục Bát, hai thể thơ thuần túy Việt Nam : 

A - Cấu trúc: 

1 - Bài thơ Song Thất Lục Bát không hạn chế số câu, gồm hai câu 7 chữ rồi đến một câu 6 chữ và một câu 8 chữ. 
Thí dụ: 
 Trích tác phẩm "Cung Oán Ngâm Khúc" của Nguyễn Gia Thiều:

Trải vách quế gió vàng hiu hắt, 
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, 
Oán chi những khách tiêu phòng, 
Mà xui phận bạc nằm trong má đào. 
Duyên đã may cớ sao lại rủi, 
Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang, 
Vì đâu nên nỗi dỡ dang, 

Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi mình. ....
2 - Bài thơ Lục bát cũng không hạn chế số câu, gồm một câu 6 chữ và một câu 8 chữ.
Thí dụ :
Trích tác phẩm "Lục Vân Tiên" Của Nguyễn Đình Chiểu: 

Trước đèn xem truyện Tây Minh 
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le. 
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe, 
Dữ răn việc trước lành dè thân sau. 
Trai thời trung hiếu làm đầu 
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình. 
Có người ở quận Đông Thành, 
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền. .....

B - Trình bày: 

Chúng ta thấy cách sắp xếp các câu không giống với các thể thơ khác. Đó cũng là nét riêng của thơ Việt Nam, đây chính là cách trình bày đã có từ trước. Tất cả các câu thơ được chia đều hai bên, tự đối xứng qua tâm điểm, và tâm của các câu nằm trên đường thẳng, giống hai thí dụ trên 
Trong thời gian sau này, để tạo phong cách mới, với hình thức bắt mắt hơn, có một số thơ Lục Bát không còn mang dáng dấp trước đây gồm câu 6 và câu 8 mà bị tách ra thành bốn, năm câu mỗi câu chỉ đôi ba chữ. Có nghĩa là thơ Lục Bát vô tình bị chốí bỏ. Một thể thơ đặc thù của dân tộc Việt Nam bị chính người Việt xoá đi do vô tình hoặc cố ý 
Tuy nhiên, vẫn còn đó những người có tinh thần dân tộc, thành lập những Thi Đàn Thơ Lục Bát, Hội Những Người Yêu Thơ Lục Bát...chủ yếu để gìn giữ bản chất cố hữu của thơ thuần tuý Việt Nam.
Nếu thật sự chỉ vì muốn tạo nên một hình thức mới cho thơ, đâu cần phải xé vụn thơ Lục Bát để cho ra một hình thức mới.. chẳng lẽ chúng ta không đủ khả năng để sáng tác những bài thơ mang hình dáng mình mong muốn bằng các thể thơ khác chăng? Chắc chắn không phải vậy.
Rất tiếc là chúng tôi không còn lưu giữ những bài thơ Mới, có hình thức mới lạ của các người làm thơ tài tử, nghiệp dư cách nay khoảng 40 năm.
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu vài bài thơ tượng trưng của Quên Đi, mang hình dáng theo sự sắp xếp của tác giả, được sáng tác trong thời gian gần đây, không hề sử dụng thể thơ Lục Bát hay Song Thất Lục Bát. 

Mưa

Tiếng mưa rơi
Giọt mưa tí tách
Phải chăng than thở tình đời
               Mưa rên rỉ
               Như cay đắng thầm thì
               Sao nghe buồn tê tái
Mưa nức nở
Thương xót cho cuộc tình tan vỡ
Duyên thì không nhưng nợ đã đeo mang
               Mưa tuôn tràn
               Thay dòng lệ buổi sang ngang
               Sẽ nhớ mãi
              Em ơi tình tuyệt vọng
Mưa bong bóng
Như mối tình còn lắng động
Trong tim ta
Dẫu năm tháng xa vời
               Thôi, mưa đã dừng
               Giọt tình đã ngưng
Hãy chôn dấu chuyện yêu đương một thời vụng dại

--0O0-- 

Dũng Khí

Đời!.. 
Là vô thường
Có trăm đường vạn nẻo
Mỗi chúng ta mỗi lối đi riêng
Ưu phiền

Hay vui thú
Đều có đủ ở tương lai
Không phải tất cả đều trôi chảy 

Phải vấp ngã 
Phải chua xót đắng cay 
Phải miệt mài phải tự tìm hiểu 
Mới học được những điều hay trên thực tế 

Đời là thế 
Chấp nhận 
Chớ phân vân 
Chớ né tránh 
Dũng mãnh 
Bước tiến lên 

 --0O0-- 

Xuân Lại Buồn

Xuân!..
Lại về
Mang niềm vui tới
Những gương mặt rạng ngời
Hớn hở đón mừng
Mùa xuân

Mới!..
Vui tươi
Rộn rã tưng bừng 
Hoa khoe sắc nơi nơi 
Lay động lả lơi 
Khêu gợi 
Mời!... 
Ong bướm 
Vờn lượn muôn hoa 
Nhưng chỉ một nụ hồng 
Lôi cuốn bướm ong 
Hào hoa 
Đến!... 
Trong lòng 
Tình yêu sống dậy 
Một lần nữa Bướm đây 
Bị đẩy bên đường 
Đau thương 
Buồn!... 

--0O0--

 Đêm

Đêm...
Nghe tiếng muôn trùng
Khiến lòng ray rức nghĩ mông lung...
Thời xuân hết
Có còn gì để nhớ
Một thuở yêu người tựa giấc mơ...
Đêm
Chiếc áo đen
Che phủ kín bóng ngày
Trong tăm tối dĩ vãng dường như sống lại...
Những hôm
Tay trong tay
Ôi ngọt ngào hò hẹn
Sóng vai nhau nhịp bước gió xôn xao
Lá rung động hay chính lòng rung động...
Đêm
Đã dần tàn
Giấc mộng cũng vừa tan
Tiếc chi
Dĩ vãng đã là dĩ vãng
Sáng mai đây vẫn còn vô vàng bổn phận...

--0O0--

Chim Chiều 

Vầng Ô
       dần khất
              đàn chim
                     về tổ
              ríu rít
       gọi bầy
nơi những
       vườn cây
              chim non
                     trên cành
              mừng rở
       líu lo
hớn hở
       đón chào
              Ba Mẹ
                     về tới
              từng đôi
       chim trẻ
âu yếm
       bên nhau
             đổi trao
                     hẹn ước
             cảnh vật
       an bình
không gian
       yên tịnh
              xúc động
                    lòng ta

Quên Đi

Cầu thị, cầu tiến là bản chất của con người. Thơ cũng không ngoài quy luật đó. Những bài thơ mang dáng dấp mới lạ, những sáng tạo tân kỳ làm tăng thêm sức hấp dẫn của một bài thơ, lôi cuốn, thu hút người đọc hơn, rất đáng được trân trọng, rất đáng được khích lệ và khuyến khích nếu đó là những bài thơ Tự do, Thơ mới. Còn riêng thể thơ Lục Bát, chúng ta cần giữ nguyên trạng như từ trước, cũng như ta đang giữ gìn bản chất truyền thống văn hoá của dân tộc..

Quên Đi đâu thể nói càn
Chẳng qua thổ lộ tâm can cùng người
Ngàn năm văn vật ai ơi 
Tiền nhân truyền lại bao đời cháu con 
Hậu sinh phải giữ cho tròn 
Để vầng sáu tám mãi còn về sau 
Mỗi loại thơ mỗi sắc màu 
Như đường thi luật của Tàu chẳng sai 
Lục bát chẳng giống thơ Tây 
Nếu đem bẻ vụn sau này mất luôn.

                            Quên Đi

Huỳnh Hữu Đức