Ngày Anh Đến Ngày anh đến! Mang cả xuân nồng tươi thắm môi Con tim trở giấc chợt bồi hồi Dạt dào thầm kín lời e thẹn Bên sóng đời thôi phút đơn côi
Xuân sẽ đến đầy sao mắt em Tiếng anh ngượng ngập gọi chưa quen Tiếng lòng quên hết đời mộng thực Chim lạc đường bay mất lối quen
Ngày anh đến! Trao trọn lời yêu tay trong tay Mềm môi rượu chưa uống lòng say Dòng sông mê trở mình dậy sóng Sóng rì rào gọi khẽ tên nhau
Kim Phượng
*** The Day You Come To Me by Kim Phượng
The day you come to me! You bring the warm spring to freshen my lips for me And the heart is awakened to be fretty suddenly And is overflowed with secretive words of shyness
Beside life’s storm, there is no longer moments of loneliness
Spring will come to fill the stars in your lovely eyes The term honey is still awkward to say as I am still too shy The heart’s calling is forgotten of undistinguished life’s dreams or realities Like birds that have lost signs of flights of familiarity
The day you come to me! Words of love will be given while hands are in hands Without drinking wine we are already dead drunken then The river of ecstasy is awakened raising the water The whispering waves are up as we softly call the names of each other
Translated from Vietnamese into English by Hương Cau Cao Tân on 28 February 2022 in British Columbia, Canada
Trong khoảng thời gian bị an trí ở Cấp(Cap Saint Jacques), buồn vì lực bất tòng tâm không thể làm được gì cho non sông đất nước của mình . Trước cảnh trời nước mênh mông vẳng lại tiếng súng xa xa của quân Pháp, nhà vua đã cám cảnh mà làm nên bài thơ SẦU TÂY BỂ CẤP như sau:
Sống thừa nào biết có hôm nay, Nhìn thấy non sông đất nước này. Sừng ngựa chưa quên câu chuyện cũ, Ruột tằm đòi đoạn mối sầu tây. Thanh xuân nghìn dặm mây mù mịt, Bể Cấp tư bề sóng bủa vây. Tiếng súng ngày đêm như khúc nhạc, Dầu cho sắt đá cũng chau mày.
Dưới đây là một bài thơ rất nổi tiếng và chứa đầy tâm huyết của nhà vua đối với hiện tình của đất nước, bài Thăng Long Thành Hoài Cổ sau đây:
昇龍城懷古 Thăng Long Thành Hoài Cổ
幾度桑滄幾度驚, Kỷ độ tang thương kỷ độ kinh, 一番回首一番情。 Nhất phiên hồi thủ nhất phiên tình. 牛湖已變三朝局, Ngưu hồ dĩ biến tam triều cục, 虎洞空餘百戰城。 Hổ động không dư bách chiến thành. 儂嶺浮雲今古色, Nùng lĩnh phù vân kim cổ sắc, 珥河流水泣歌聲。 Nhị hà lưu thủy khấp ca thanh. 擒胡奪槊人何在? Cầm Hồ đoạt sáo nhân hà tại? 誰為江山洗不平? Thùy vị giang sơn tẩy bất bình?
成泰皇帝 Thành Thái Hoàng Đế 阮福寶嶙 Nguyễn Phúc Bửu Lân *** * Chú thích:
- Ngưu Hồ Hổ Động 牛湖虎洞 : tức KIM NGƯU HỒ 金牛湖 là Hồ Trâu Vàng và BẠCH HỔ ĐỘNG 白虎洞 là Hang Cọp Trắng. Hai truyền thuyết về tiền thân của Hồ Tây. Trong Tụng Tây Hồ Phú 頌西湖賦 (bài phú ca tụng Tây Hồ) của Chương lĩnh hầu Nguyễn Hữu Lượng đọc trong lễ tế trời đất của vua Quang Toản năm 1801, có nhắc lại gốc tích Hồ Tây theo các truyền thuyết kể trên:
Lạ thay cảnh Tây hồ! Lạ thay cảnh Tây hồ! Trộm nhớ thuở đất chia chín cõi, Nghe rằng đây đá mọc một gò. Trước Bạch Hổ vào ở đó làm hang, Long vương trổ nên vùng đại trạch. Sau Kim Ngưu lại vào đây hóa vực, Cao vương đào chặn mạch hoàng đô...
- Nùng Lĩnh Nhị Hà 儂嶺珥河 : là Núi Nùng, Danh sơn chính khí của đất Thăng Long, và Sông Nhị tức Sông Hồng hiện nay. Đây là hai biểu tượng NÚI SÔNG của đất Thăng Long xưa. - Cầm Hồ Đoạt Sáo 擒胡奪槊 : Bắt giặc Hồ (HỒ 胡 : là Rợ Hồ, giặc từ miền bắc tràn xuống quấy nhiễu Trung Hoa. Ta mượn từ Hồ nầy để gọi chung các triều đại phương bắc tràn xuống xâm lược nước ta). Đoạt Sáo là cướp cây giáo của giặc. Câu thơ nầy lấy ý ở bài thơ "Tùng Giá Hoàn Kinh 從駕還京" của Trần Quang Khải với hai câu đầu là:
Mấy lần tang thương biến đổi là mấy lần phải chịu cảnh kinh hoàng, nên mỗi lần quay đầu nhìn lại là mỗi lần lại xúc động tâm tình. Hồ Kim Ngưu đã trải qua thời cuộc của ba triều đại (Lý Trần Lê); Động Bạch Hổ cũng chỉ còn lại một cổ thành đã trải qua hàng trăm trận chiến. Trên đĩnh núi Nùng của đất Thăng Long mây còn vương màu chính khí của xưa nay; Tiếng nước chảy của sông Nhị Hà như tiếng ca tiếng khóc râm rang. Nào những ai "Cầm Hồ Hàm Tử, Đoạt sáo Chương Dương" nay ở nơi đâu ? Ai sẽ vì giang san nầy mà tẩy rửa đi sự bất bình ẩn ức ?!
Hai câu cuối như là lời hiệu triệu gián tiếp, vừa nhắc lại lịch sử hào hùng của dân tộc vừa thức tỉnh và kêu gọi những ai còn nặng lòng vì nước hãy đứng lên để rửa sạch những nỗi bất bình của dân tộc phải cam chịu bấy lâu nay.
* Diễn Nôm: Thăng Long Thành Hoài Cổ Mấy lượt tang thương mấy hiểm kinh, Mấy phen nhìn lại biết bao tình. Kim Ngưu từng trải ba triều đại, Bạch Hổ còn trơ một mảnh thành. Nùng lĩnh mây lành kim cổ tựa, Nhị Hà sông réo khóc ca thanh. Cầm Hồ đoạt sáo người đâu tá? Ai giúp giang san rửa bất bình?!
Lục bát:
Tang thương kinh hiểm bao lần, Quay đầu nhìn lại bội phần xót xa. Trâu vàng ba lượt triều ca, Bạch hổ trăm trận trải qua một thành. Cổ kim mây phủ đĩnh Nùng, Nhị Hà ca khóc theo dòng nước trôi. Cầm Hồ đoạt sáo qua rồi, Bất bình non nước ai người rửa cho?!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm *** Thăng Long Thành Hoài Cổ
1/
Biến đổi mấy lần mấy nỗi đau Lắm phen nhớ lại lệ dâng trào Hồ Ngưu vẫn vậy ba triều đại Động Hổ còn đây mấy chiến hào Mây núi Nùng kia mây mãi rạng Tiếng sông Hồng nọ tiếng than cao Chận Hồ đoạt giáo người đâu vắng Giúp nước lâm nguy biết kẻ nào.
2/ Mỗi lần dâu bể kinh hoàng Bao phen nhìn lại lòng càng xót xa Hồ Ngưu triều đại trải ba Còn kia động Hổ xa xa vách thành Đỉnh Nùng mãi vẫn mây xanh Tiếng Hồng tựa tiếng dân lành. khóc than Chận Hồ đoạt giáo còn vang Biết ai cứu lấy giang san lúc này.
Quên Đi *** Nhớ Xưa Thành Thăng Long
Mấy thuở tang hoang, mấy giật mình, Quay đầu nhìn lại, ngẫm bao tình. Trâu hồ đã trải ba triều đại, Cọp động còn đây một mảnh thành. Nùng Lĩnh nhuốm mây, mầu sắc cổ, Nhị Hà tuôn nước, tiếng reo thanh Cầm Hồ đoạt sáo, người đâu nhỉ! Ai giúp giang sơn, xóa bất bình?
Danh Hữu Paris, sang thứ hai, 29.11.2021 *** Thăng Long Thành Hoài Cổ Mấy cảnh điêu linh mấy hải hùng Bao phen ngoảnh lại bấy đau chung Ngưu Hồ thời có ba triều đại Động Hổ thành trơ trăm trận hùng Nùng Lĩnh đám mây còn rực rỡ Nhị Hà tiếng réo đến khôn cùng Dẹp Hồ cướp giáo người đâu thấy Ly loạn gươm ai sẽ vẫy vùng
Mơ ước cho đầy những ước mơ Bàn tay nắm trọn bàn tay chờ Luyến lưu đưa tiễn ngày xa bến Người lướt trùng dương kẻ ngẩn ngơ
Trở gót bâng khuâng tự hỏi lòng Xa rồi ai đấy có buồn trông Đêm nay gió lộng lùa qua phố Gối lẻ cô phòng với mỏi mong
Trả lại sân ga nơi tiễn người Dưới trời sương lạnh não nề ơi Tàu đêm năm cũ chưa về tới Chờ đợi con tàu trả lại tôi Kim Phượng Cảm Tác Từ Nhạc Phẩm Tàu Đêm Năm Cũ
Lá vàng rơi ngỡ bước chân ai Gió rít qua khe tiếng thở dài Yêu đã bao năm yêu chẳng nghĩ Hận dầu hết kiếp hận nào phai Cuộc đời biến đổi tình tan vỡ Số phận chia ly cảnh khéo bày Cam chịu gánh sầu khi rẽ lối Bởi lòng động tựa lá vàng lay
Bởi lòng động tựa lá vàng lay Hy vọng còn đâu đếm tháng ngày Từng khắc âm thầm đau quạnh vắng Mỗi giây mòn mỏi ngấm chua cay Yêu chi sớm biết tình di hận Tiếc chỉ càng thêm héo úa mày Duyên nợ chẳng thành thôi chớ bám Đành như chiếc lá cuối mùa bay.
Quên Đi *** Bài Họa:
Thu Sầu
Xào xạc lá vàng ngỡ bước ai Chờ mong thao thức suốt đêm dài Tâm đầu thắm thiết không thay đổi Ý hợp thuận hòa chẳng nhạt phai Dẫu biết ân tình luôn vướng víu Phải chăng định mệnh đã an bày Vỡ tan giấc mộng đành ôm mộng Man mác thu sầu động gió lay
Man mác thu sầu động gió lay Tiết thu ray rứt cuối thu ngày Duyên tình nhớ mãi càng da diết Kỷ niệm mong hoài chuốt đắng cay Níu giữ hương thừa thêm ủ mặt Tiếc chi hoa úa đến chau mày Bâng khuâng gợi nhớ mùa thu ấy Chiếc lá cuối cùng cũng vút bay
Chút gì…hình bóng quê hương * Hồn thơ trỗi dậy nhớ thương từng hồi Bờ sông bên lở bên bồi Tuổi già ký ức đến rồi mất đi … Trong tâm cảm xúc mỗi khi Nhìn về hiện tại rèm mi lệ trào
Ngày xuân ngan ngát hương hoa Ngẩn xa áo lụa đôi tà thơ ngây Mai vàng đính tóc xõa vai Ngọc ngà tuổi mộng trăng đầy đoan trang Tình dâng ý thắm mang mang Bồi hồi dõi bước dịu dàng em đi Hài thanh động gót xuân thì Ngất ngây khơi động rèm mi hẹn thề Lần theo dáng nhỏ chân quê Đêm xuân thao thức chợt mê giấc nồng
Kim Phượng *** Lady of Spring
by Kim Phượng
On a spring day, overwhelmingly pervading is the scent of flowers As the two naïve flaps of silk dress from the distant are looking over The ochna integerrima flowers are clinging on shoulder hair so lengthy As your pearly dreamy age is full of correctness and decency As love is implied in the rising of warm borne intentions As I am following your pacing steps so tenderly in action Your curled tipped shoes stir up the springiness time so lightly That softly starts up the vowing eyelashes in somewhat ecstasy As I am looking over following your tiny figure of peasantry plainness And suddenly crave for a deep sleep in the spring night’s sleeplessness
Translated from Vietnamese into English by Hương Cau Cao Tân on 05 March, 2022, in British Columbia, Canada
Trăng khuất giữa mây trời Lạnh lùng sương khắp nơi Chó buồn ngơ ngác sủa Thơ thẩn lá đành rơi Căn gác đìu hiu gió Đàn tôi than thở đời Đêm trường em vắng bóng Ân ái cũng xa rời.
Quên Đi *** Các Bài Họa:
Đêm Trung Thu
Trăng rằm sáng giữa trời Đêm lạnh giá muôn nơi Con chó xồm luôn sủa Rừng phong lá vẫn rơi Vi vu thông ngọn gió Thoang thoảng phấn hương đời Gối chiếc em xa vắng Chăn đơn tớ rã rời...! Mai Xuân Thanh *** Vào Đông
Buồn thinh giữa đất trời Gió nhẹ thoảng nhiều nơi Điệu lá vàng tuôn đổ Dòng thơ cũ chuyển rời Mơ màng con sóng vỗ Lặng ngắm mảng chiều rơi Tuổi hạc nhìn trăng khuyết Cài treo mảnh vá đời Mai Thắng *** Chiều Thu
Mây xám phủ đầy trời Sương mờ giăng mọi nơi Hắt hiu gió nhẹ thổi Lả tả lá vàng rơi Nặng nghĩa tình hai gánh Thương tri kỷ một đời Hồi chuông thong thả đổ Phiền muộn bỗng buông rời Phương Hà *** Đêm Thu
Hồn thu chuyển đất trời Cảnh vật bừng nơi nơi Làn gió lay sương đọng Rừng thu ngập lá rơi Mây thu lơ lửng mộng Thu sắc ngất ngây đời Này hỡi thi nhân hỡi Nặng tình thu chớ rời
Nhà tỷ phú Mỹ Elon Musk khi thấy Trung Quốc lăm le đánh Đài Loan, ông đã đăng bài thơ "Thất Bộ Thi" của Tào Thực. Ông ví Trung Quốc như Tào Phi và Đài Loan như Tào Thực:
七步詩 Thất Bộ Thi
煮豆然豆萁. Chử đậu nhiên đậu ky
豆在釜中泣 Đậu tại phủ trung khấp
本是同根生 Bản thị đồng căn sinh
相煎何太急。 Tương tiễn hà thái cấp.
Dịch Nghĩa:Bài Thơ Làm Trong Bảy Bước Đi
Dùng cây đậu làm củi để nấu hạt đậu
Hạt đậu ở trong nồi than khóc
Đã được sanh ra cùng một cội rễ
Sao lại nỡ đốt nhau gấp thế này.
Dịch Thơ:
Củi đậu dùng nấu đậu
Đậu trong nồi khóc than
Cả hai cùng một gốc
Sao lại nấu không màng.
Ngoài bản trên, "Thất Bộ Thi" còn một bản khác, có 6 câu:
七步詩 Thất bộ thi
煮豆持作羹 Chử đậu trì tác canh
漉豉以為汁 Lộc thị dĩ vi trấp
萁在釜下然 Ky tại phủ há nhiên
豆在釜中泣 Đậu tại phủ trung khấp
本自同根生 Bản tự đồng căn sinh
相煎何太急。Tương tiễn hà thái cấp.
Dịch nghĩa
Nấu đậu để làm canh
Lọc đậu để lấy nước
Thân đậu đốt ở dưới nồi
Hạt đậu trong nồi cất tiếng khóc than
Đã được sanh ra cùng một cội rễ
Sao lại nỡ đốt nhau gấp thế này.
Dịch Thơ:
Nấu đậu dùng làm canh
Lọc qua để lấy nước
Thân đậu cháy dưới nồi
Đậu bên trong khóc mướt
Cả hai chung một dòng
Lại đốt nhau cho được.
Quên Đi
***
Thất Bộ Thi 1
Nấu đậu bằng củi đậu,
Đậu trong nồi hu hu :
Vốn sinh cùng gốc giậu
Sao nở đãi như thù ?
Danh Hữu
***
1) Thất Bộ Thi Số 1
Củi Đậu Nấu Đậu
Củi đậu đem nấu đậu
Đậu kêu khóc trong nồi
Vốn sinh cùng một gốc
Nung nhau đau đớn...ôi!
2) Thất Bộ Thi Số 2
Củi Đậu Nấu Canh Đậu
Đun nấu đậu làm canh
Lọc qua nước đậu nhanh
Dưới nồi bằng củi đậu
Nghe đậu kêu thất thanh!
Cội rễ sinh cùng gốc
Mà đốt chết sao đành ?...!
Mai Xuân Thanh
November 08, 2021
***
1/ Thất Bộ Thi
Đun đậu dùng củi đậu
Hạt trong nồi đớn đau
Trót sinh cùng một gốc
Đốt vội thế này sao
2/ Thất Bộ Thi
Dùng đậu để nấu canh
Nước đậu trong gạn lọc
Củi đậu đốt dưới nồi
Hạt trong nồi khóc lóc
Sinh ra cùng cội rễ
Nở đốt nhanh thật độc
Kim Phượng
***
1/ Thất Bộ Thi
Củi đậu đem
nấu đậu
Hạt trong
nồi khóc thầm
Cùng sinh
ra một gốc
Sao lại nỡ đành
tâm
2/ Thất Bộ Thi
Đậu nấu dùng
để làm canh
Gạn đục lọc lại trong lành nước ngon
Thân đậu cháy
dưới đáy soong
Bên trong đậu
khóc nỉ non đau lòng
Được sanh
ra cùng một dòng
Cớ chi lại đốt
sao không xót tình.
Kim Oanh
***
Góp Ý:
Tào
Thực tự Tử Kiến là con thứ ba của Tào Tháo, vốn có tài làm thơ hay,
được tiếng là đệ nhất thi nhân đời Tần-Hán nhưng có tính phóng túng. Tào
Tháo thương lắm nhưng không thể truyền ngôi cho một chàng giàu tâm hồn
nghệ sĩ ấy được. Tháo chết, truyền ngôi cho con cả là Tào Phị Thực bản
tính ngông nghênh bất phục, có ý chống lại ông vua anh. Phi giận lắm,
truyền người bắt Thực đến định làm tội. Nhưng vì yêu tài Thực nên Phi
bảo:
-
Ta với mày tuy tình anh em nhưng nghĩa vua tôi, sao dám cậy tài miệt
lễ? Ngày tiên quân còn, mày thường đem văn chương khoe giỏi lòe đời. Ta
rất nghi, có lẽ mày nhờ người khác làm giúp. Vậy giờ đây ta ra hạn: đi
bảy bước phải làm xong một bài thơ. Nếu làm được thì tha tội chết; bằng
không xong, ta quyết chẳng dung.
Thực nói:
- Xin ra đề cho.
Phi nói:
- Ta với mày là anh em. Cứ lấy câu đó làm đầu đề. Nhưng cấm dùng hai chữ "Huynh", "Đệ".
Thế là Tào Thực làm bài thơ "Thất Bộ Thi".
Phi
nghe cảm động, sa nước mắt, liền tha cho, nhưng giáng Tào Thực làm An
Hương Hầu. (Theo "Điển Hay Tích Lạ" của Nguyễn Tử Quang)
Cảnh
anh em vì tranh giành quyền lực như hai con của Tào Tháo không phải là
hiếm. Ngay trong sử Việt cũng có câu chuyện tương tự. Đó là chuyện nói
về anh em nhà Tây Sơn.
Do tranh quyền, Nguyễn Nhạc và Nguyện Huệ đánh nhau. Nguyễn Nhạc yếu thế, nên xuống nước thốt lên:
- “Bì oa chử nhục đệ tâm hà nhẫn” (Nồi da nấu thịt em nỡ đành lòng sao).
Nghe xong Nguyễn Huệ cảm động và anh em giảng hòa.
Ta về Tô Thùy Yên Tiếng biển lời rừng nao nức giục Ta về cho kịp độ xuân sang
Ta về - một bóng trên đường lớn Thơ chẳng ai đề vạt áo phai... Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ? Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp, Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu Mười năm, mặt xạm soi khe nước Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín Đời im lìm đóng váng xanh xao Mười năm, thế giới già trông thấy Đất bạc màu đi, đất bạc màu...
Ta về như bóng chim qua trễ Cho vội vàng thêm gió cuối mùa Ai đứng trông vời mây nước đó Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước? Núi lở sông bồi đã lắm khi... Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động Mười năm, cổ lục đã ai ghi?
Ta về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời Cảm ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa Làng ta, ngựa đá đã qua sông Người đi như cá theo con nước Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội Bếp lửa nhân quần ấm tối nay Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy Ruột mềm như đá dưới chân ta Mười năm chớp bể mưa nguồn đó Người thức nghe buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt Tội tình chi lắm nữa, người ơi!
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ Mười năm, người tỏ mặt nhau đây Nước non ngàn dặm, bèo mây hỡi Đành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng Chấp chới trôi buồn với nắng hanh Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng? Phải, ôi vàng đá nhắn quan san?
Lời thề truyền kiếp còn mang nặng Nên mắc tình đời cởi chẳng ra Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ Mười năm, ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán Trong cõi hoang đường trắng lãng quên Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ Nhà thương khó quá, sống thờ ơ Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ Khách cũ không còn, khách mới thưa...
Ta về khai giải bùa thiêng yểm Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi! Hãy kể lại mười năm mộng dữ Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay, ta sẽ đi thơ thẩn Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở? Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu Mười năm, con đã già như vậy Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu...
Con gẫm lại đời con thất bát Hứa trăm điều, một chẳng làm nên Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn Hạt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng Rau mác lên bờ đã trổ bông Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu Ta nghe như máu ân tình chảy Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất Khắp thế gian này để gặp em Đau khổ riêng gì nơi gió cát... Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà! Tình xưa như tuổi già không ngủ Bước chạm khua từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí Tuổi nhỏ đi tìm những tối vui Trăng sáng lưu hồn ta vết phỏng Trọn đời, nỗi nhớ sáng không nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ Hãy sống, đương đầu với lãng quên Con dế vẫn là con dế ấy Hát rong bờ cỏ, giọng thân quen
Ta về như nước tào khê chảy Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ Thân thích những ai giờ đã khuất? Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ Đêm buồn, ai nữa đứng bờ ao Khóc người, ta khóc ta rơi rụng Tuổi hạc, ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi Lục lại thời gian, kiếm chính mình Ta nhặt mà thương từng phế liệu Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây, nền cũ nhà hương hoả Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời Ai đó trong hồn ta thổn thức? Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ Một thuở trần gian bay lướt qua Ta tiếc đời ta sao hữu hạn Đành không trải hết được lòng ta
7-1985 Nguồn: Tô Thùy Yên, Thơ tuyển, Minnesota, 1995 *** I am returning by Tô Thùy Yên
Ocean voices and forest words are eagerly urging I am returning to catch the moment of spring’s coming
When I am returning - just like a lone shadow in a vast road Yet no one bothers writing poems on my fading coat ... Why do I suddenly feel the pains of my lungs and intestines? It’s been ten years, so even rocks could have pity in their mind
Good-bye, the one of I-of-ten-year, who died a covered up death In sacred forests where his voice, for thousand autumns, could be at rest For ten years, I have been seeing my sunburnt face in brooks’ water Have transformed myself into a simple pliopithecus, the human former
I am returning passing by those moors and river tributaries To feel the winds playing on the furrows of my forehead lightly I will be contemplating the old heaven and earth astoundingly And be listening to the dying dusts of the months and years so lightly
That is all there is. Heaven is dumb and earth keeps silent And life is quietly accumulating a greenish film, it just so happens It has been ten years, and the world is looking old conspicuously The earth’s colour is fading slowly, the earth’s colour is fading slowly ...
I am returning like a shadow of a bird that is coming in late So the ending seasonal winds are hurriedly moving in in haste Who is the one that has been standing looking over at clouds and water For thousands of years till the hair and beard become as white as silver
How many wishes can one be granted in a lifetime? Mountains can move, rivers can deposit, yet there will not be a time ... Many kinds of noises have been silenced in mankind’s history It is only ten years, who cares to record it in books of ancient history?
I am returning with my salt-and-pepper head bending over slowly Listening to the weighty merciful heart of Heaven and Earth’s generosity I am grateful to flowers that have been blooming because of me The world is joyful because of the accumulation of each thing individually
I imagine that house after house are opening their doors wide Because a stone horse from our village has crossed the river all right People gathered along the tracks like fish swimming along stream of water While penta-serial drums are sounding urgently to celebrate the event ever
I am returning like a leaf falling down back to the root of the tree Tonight warm would become the cooking fire of human community Please kindly sprinkle some of this red wine into the burning fire So to vindicate this change from oceans into mulberry fields with time
I am crying because of the humane care people have for others at times When misfortune befalls others, like rocks under my feet, ready to provide Ten years is a significant event like ocean’s lightning or source torrents Making a watchful person feel the sorrow pervading far into the distance
I am retuning like a dewdrop lingering on a blade of tiny grass Where the sorrow is condensed while the human life is going to pass No matter how tiny it is, a life has the time to be born, grown, and spent What is the point to accuse and torture others more, oh my man!
The shop on steep hill where autumn breath is blowing in the longing It has been ten years; it’s now for face searching and clear looking The distance is thousands of miles of mountains and rivers, o water fern So I can only drink half of the inviting cup of water in my turn
I am returning like a heavenly cord that is so white And is flying rolling and sadly flowing with the sunny and dry sunlight Who is calling whom that is walking on this empty long distance? That’s right, is it the loyal sending messages to frontiers and mountains?
The hereditary vows are still being remembered deeply So the yoke of life’s love debts is stuck on me, I cannot be free I miss the faraway person who is beyond the missing and the longing Although it has been ten years, I still remain me in my being
I am returning feeling like my poem inspiration has been scattered wide Into wild realm and ono forgotten roads that look so amazingly white Staying in my old house, I am grateful to the surviving roof and partitions Despite hanging spider webs, black soot, and termite eaten foundation
Everything is no longer having the same old loving order I am in a poor and pitiful situation, living indifferently just to get over Fences are slanting, gate slumping, on the ground, grass is fully covering Old customers are gone, and new ones are slowly diminishing ...
I am returning to dissolve the curses of efficacious charms in oppressing Hey there, wake up, friends, O my wood and my stone! Please kindly retell the story of ten years of nightmares so frightening Tell me the story just for once and then let them have their due ending
This afternoon I will be doing my dreamily strolling And will be inquiring each and every plant about its private concerning Be asking the grapefruit and briar rose flowers if they ever blossom That it has been ten years; would they still remember the distant person?
I am returning feeling like a worthless squandering son Whose life is bankrupted in the changing of mulberry fields into oceans It has been ten years, I, your son, am getting old, and quite Let alone my parents, they are like oil lamps that are getting dry ...
Reviewing my life, I find that mine is just the life of a loser Out of a hundred promises I have made, not one is delivered As my life is passing by, only layer upon layer of delusion So much tear crying for the upheaval has been shed in silence
I am returning like a voice that has been resounding from afar The blooming flowers on the banks are the ones of the centella You will still be standing even for a period of one thousand years Waiting for me patiently like the ocean waiting for the river here
I will be calling for time behind the loving door Where the joy will induce the happy tears in your eyes the more I feel as if the blood full of deep gratitude is flowing like a river Since some distant life when we thought we had lost one another
I am returning despite that I will have to walk around in bare foot, All over this world to meet you the person whom I should Sufferings are not reserved solely for distant windy and sandy places But also on house pavements, banana bushes and in nights staying up late
The old grapefruit tree still has snow white flowers, as I remember When the night is not deep yet, under the moon that just climbs over My old love is like the old age that is lacking lots of sleep Where the walking steps touch and stir up the suffering feelings so deep
I am returning as a mysterious and mystical dream Going back to youthful age searching for happy nights so it seems Where the bright shining moon retains in my soul a burnt patch forever All my life, the longing will constantly shine without getting dimmer
My little child, together with the old joy and sorrow that are happening Please try to live and survive, confronting the forgetfulness in containing The cricket remains the same old cricket to you and me Who is singing along grassy banks in a voice that sounds so friendly
I am returning as the Buddhist Knowledge Stream that is running Even the prime star, after ten years, will have its brightness become fading Among my relatives, who have survived and who have passed away? In my current living, I feel the emptiness more certain than in those days
Those that have been dead accompany me to the grave together In those sad nights, who else stands on the pond’s edge mulling over I am crying for others as I am crying for my being fallen and faded away When being at the age of seniority, fast is the diminishing day after day
I am returning like a ghost shadow in sulking and in a self-pity situation Who minutely search for time, for the image of self-reflection I am picking up each discarded item feeling the love for each of them Like every skeleton that will soon become anonymous as the time comes
I am sitting here on the place of the heritage hall’s ancient foundation Rereading the poem that has been composed since my youth portion Feeling that someone within my soul is sobbing emotionally Like the moon crescent that is still missing the playful stroll regrettably
I am returning like a golden crane that is deep in the missing Of the time when in the world was he gracefully flying and gliding I am regretful that my life is constricted and limited so undesirably That I can only open my heart for others to see partially not wholly
July 1985 Source: Tô Thùy Yên, Collected Poems, Minnesota, 1995 Translated into English by Hương Cau Cao Tân (04-04-2021)
Chút gì….mãi đọng ở tim ta! Hình bóng quê hương chẳng xoá nhoà Quán nước đình làng nơi bến vắng Hàng cau vườn ngoại chốn đồng xa Chiếc cầu nhỏ nhỏ bên bờ rạch Lớp học đơn sơ trước cửa nhà Ký ức êm đềm thời tuổi dại Khắc hoài tâm trí kẻ bôn ba
songquang *** Bài Họa:
Khách Ly Hương
Lìa xứ nào đâu chỉ có ta Nước non nghìn dặm chửa phai nhòa Tàng cây rợp bóng con đường cũ Dòng nước soi mình kỷ niệm xa Dãi nắng dầm mưa trời viễn xứ Thèm hơi nhớ hướng đất quê nhà Ai gây thảm cảnh phân ly ấy
Tâm trí hoài chia bảy xẻ ba
Kim Phượng
***
Chạnh Tiếng Gà
Kính Họa (5 Vần)
Ngõ trúc đường làng khắc dạ ta Bao thu cách biệt vẫn không nhòa Hàng cau liếp lá bờ đê vắng Bến nước con đò bãi bắp xa Lịu địu tha phương sầu đất khách Bùi ngùi viễn xứ nhớ quê nhà Dâu kia bể nọ phai màu tóc Nỗi nhớ thâm đêm chạnh tiếng gà
(Trích chương 66 trong bộ sách DINH LONG HỒ NGÀY ẤY & BÂY GIỜ của tác giả Người Long Hồ)
Người dân của vùng đất phương Nam không ai là không từng nghe đến Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, mà người bình dân thường gọi là Nhà Thương Điên Biên Hòa. Nói đến nhà thương điên Biên Hòa của một thời, không ai là không chạnh lòng thương cảm cho những mảnh đời bất hạnh, mang lấy căn bệnh tâm thần quái ác và phải bị giam mình một nơi trong đó. Và khi nói đến nhà thương điên Biên Hòa, những vị bô lão đất phương Nam thường trân trọng nhắc đến tên của Bác Sĩ Nguyễn Văn Hoài, là người Việt Nam, đầu tiên được bổ nhậm làm giám đốc tại đó. Ông sanh ngày 7 tháng 6 năm 1898 tại làng Long Châu, quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long, trong một gia đình khá giả, nhưng có truyền thống nhân hậu lâu đời. Sau khi học xong bậc trung học, với lòng thương người, ông đã chọn theo đuổi ngành Tây Y, mong có thể giúp làm dịu bớt những đau khổ về thể xác của con người trước bệnh tật.
Năm 1919, ông tốt nghiệp ngạch y sĩ tại trường Đại Học Y Khoa Hà Nội và được bổ đi phục vụ ở các nơi như Tây Ninh và Trảng Bàng (1921), Tam Bình, Vĩnh Long (1922), Long Xuyên (1923). Sau đó, vào năm 1925, ông thuyên chuyển về Sài Gòn làm việc. Đến năm 1926, ông tạm rời nghề thuốc để sang Pháp du học tại đại học Sorbonne, học về khoa tâm lý và triết lý. Đầu năm 1930 ông trở về nước tiếp tục phục vụ trong nghề Y. Lúc này ông thấy các vị bác sĩ đều thoái thác việc đảm nhận trách vụ cai quản Bệnh Viện Tâm Thần ở Biên Hòa, nên ông tình nguyện đến đó và đã phục vụ cho bệnh viện này trên 25 năm. Ông tự nhủ: “Ai cũng xa lánh cái thế giới ấy, càng tăng thê thảm đau thương cho cảnh sống dở chết dở kia biết mấy. Không ai chịu đến nơi ấy thì mình đến vậy.” Sau khi đến làm việc tại Bệnh Viện Tâm Thần Biên Hòa thì ông lại có quyết tâm hiến trọn đời mình làm sao cho cái “địa ngục nhốt người điên thành thiên đường cho người dưỡng trí”.
( Bên trong dưỡng trí viện Biên Hòa 1925)
(Bên trong dưỡng trí viện Biên Hòa 1934)
(Bên trong dưỡng trí viện Biên Hòa 1934 - hình 2)
Thật vậy, sau khi bắt tay vào việc là ông hòa mình cùng với đám người đau khổ này, ông thương xót họ vô biên và luôn hết lòng phục vụ họ trong mọi tình huống. Sự tận tụy của ông đã khiến cho chẳng những nhân viên của ông và thân nhân của những bệnh nhân kính phục, mà ngay cả những bệnh nhân tâm thần nhẹ cũng từ từ khuyên giảm và trở về đời sống bình thường. Có điều đáng nói là những người này sau khi lành bệnh, họ không chịu về nhà, mà xin tình nguyện ở lại đây cùng Bác Sĩ Hoài phục vụ những bệnh nhân khác. Trong khoảng thời gian này, số bệnh nhân phục hồi hoàn toàn ngày càng đông, khiến cho những giám đốc người Pháp trước đây cũng phải kính phục. Tưởng cũng nên nhắc lại Dưỡng Trí Viện Biên Hòa thời đó, mà có lẽ cho mãi đến ngày nay, là bệnh viện tâm thần lớn nhất ở Việt Nam, chuyên trị bệnh nhân bệnh tâm thần. Ngày nay chúng ta thấy khuôn viên bệnh viện được mở rộng, cây cối thoáng mát, bông hoa tươi thắm, cũng là nhờ tấm lòng của Bác sĩ Hoài, người đã vận động không riêng gì Bộ Y Tế Đông Dương mà còn vận động cả Bộ Y Tế Pháp tài trợ cho chương trình mở rộng khuôn viên cho bệnh nhân có chỗ giải trí và đi tản bộ. Ngoài ra, ngoài ngân sách tài trợ của chính phủ, Bác sĩ Hoài còn tạo thêm nguồn lợi chung cho bệnh viện bằng cách thiết lập trại chăn nuôi, trồng tỉa, và tiểu thủ công nghệ và giao phó cho những người mà bệnh đã thuyên giảm dưới sự giám sát của y tá và những nhân viên khác của bệnh viện. Lấy những huê lợi này để làm tăng khẩu phần cho tất cả bệnh nhân.
(Những dãy giường cho bịnh nhân 1934)
(Dưỡng trí viện Biên Hòa 1955)
Năm 1944, Bác sĩ Hoài hợp sức cùng một bác sĩ người Pháp tên Dorolle đã sáng chế ra máy Điện Kinh. Dưỡng Trí Viện Biên Hòa là trung tâm thứ tư trên thế giới thời đó biết sử dụng máy Điện Kinh để chửa bệnh tâm thần, ba nơi khác là Nhật, Ý và Pháp. Đến ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp và nắm chính quyền cho đến tháng 9 năm 1945. Trong khoảng thời gian này, người Nhật không tài trợ bất cứ kinh phí nào cho những cơ sở đã có từ trước của chính quyền thuộc địa Pháp, nên Dưỡng Trí Viện Biên Hòa không có kinh phí chăm sóc bệnh nhân, nhưng bác sĩ Hoài vẫn cố xoay sở để các bệnh nhân vẫn được tiếp tục ở lại đó điều trị. Trong những lúc khó khăn nhất của bệnh viện Tâm Thần Biên Hòa bác sĩ Hoài đều ra sức gánh vác. Ông đã đảm nhận tất cả mọi vai trò trong bệnh viện từ năm 1930, nhưng mãi đến năm 1947, mới có giấy chính thức bổ nhiệm ông vào chức Giám Đốc.
Dưới thời chính phủ Trần Văn Hữu, vì lý do tài chánh, Thủ Tướng Hữu định cắt bớt khẩu phần của bệnh nhân. Ông đã mạnh dạn chống lại bằng những lời lẽ đầy lòng bác ái: “Họ là những người xấu số nhất, tâm đã rối, trí đã loạn rồi, nay lại làm cho bao tử họ thiếu ăn, để cho cơ thể họ suy mòn, ảnh hưởng không hay đến tâm trí họ thì có khác gì giết phứt họ đâu. Xin cấp trên tìm cách tiết kiệm ở những nơi khác.” Tấm lòng của bác sĩ Hoài luôn lan tỏa và bao trùm khắp nơi nơi. Bên cạnh chuyện lo cho bệnh nhân, ông còn luôn chăm sóc cho nhân viên và những người làm việc tự nguyện trong bệnh viện. Ngoài ra, lúc nào rảnh rỗi là ông nghiên cứu tất cả triết thuyết của các tôn giáo, nhất là Phật giáo, cũng như quan tâm đến vấn đề siêu hình. Càng biết nhiều về giáo lý Phật giáo, ông càng phục vụ tận tụy hơn.
Đối với ông, đời người phải sống như chữ “I”, nên ông đã sáng tác một bài thơ có tựa đề là “Phong hóa chữ I” như sau:
“Chữ I ngay thẳng Chẳng vì ai: Chẳng tùy ai; Chẳng khuất ai; Mãi mãi ta theo ánh sáng...”
Ngoài phạm vi y học, bác sĩ Hoài còn nghiên cứu các vấn đề về kinh tế, xã hội và văn hóa, tâm lý, cũng như triết lý siêu hình của các tôn giáo, nhằm trực tiếp giúp ích cho sự tồn tại và phát triển của Dưỡng Trí Viện Biên Hòa. Năm 1951, ông xuất bản quyển Le Problème de la Paix (Vấn đề Hòa Bình); năm 1952 ông xuất bản 2 quyển: Điên & Dưỡng Trí Viện, và quyển Programme d'hygiène mentale (Chương Trình Vệ Sinh Tâm Thần); năm 1953-1954, ông xuất bản quyển De l'organisation de l'Hôpital Psychiatrique du Sud Vietnam (Về Tổ Chức Bệnh Viện Tâm Trí của Miền Nam Việt Nam). Theo bác sĩ Hoài, đối với bệnh nhân tâm thần thì trong giai đoạn đầu của sự điều trị cho bệnh nhân tâm thần, bệnh viện là tàu thuyền đưa bệnh nhân tới bến bờ ổn định tâm thần (Hôpital Bateau); đến giai đoạn kế là tiến dần đến bệnh viện hoa viên (Hôpital Jardin) nhằm đáp ứng với thần trí đang trong giai đoạn phục hồi của bệnh nhân. Bác sĩ đã khẳng định rằng Hoa viên là tấm gương phản ảnh của đạo đức, vì Hoa là sự nhịp nhàng xinh đẹp, là sức sống, trong đó hoa vàng tượng trưng cho sự tinh khôn, hoa đỏ tượng trưng cho từ tâm. Hoa viên cũng là sự bừng nở của thảo mộc, như tấm lòng của con người ta bừng nở tươi vui với đời sống tinh thần, với cảnh giới Niết Bàn, với sinh hoạt của thế giới, và của vũ trụ.
Trong cuộc sống hàng ngày, bác sĩ Hoài sống một đời sống hết sức thanh đạm và giản dị của một bậc hiền triết đã thấm nhuần đạo lý. Ông ăn uống thanh đạm, ăn mặc đơn giản. Ngày ngày, ngoài giờ làm việc, ông còn bỏ giờ ra đọc sách và giải trí, và thường đi bách bộ trong khuôn viên Dưỡng Trí Viện. Có người hỏi bác sĩ Hoài là tại sao ngoài giờ làm việc ông không tìm nơi khác hơn Dưỡng Trí Viện mà tiêu khiển cho tâm trí đở mệt mỏi, bác sĩ Hoài đã khẳng quyết: “Mỗi chúng ta đều là một người điên trong phút giây nào đó.” Thật là chí lý, vì trong xã hội này, nếu nói về khuyết tật, thì mỗi chúng ta đều có khuyết tật cả.
Ông mất vào ngày 28 tháng 5 năm 1955 tại Dưỡng Trí Viện Biên Hòa. Ngày đó chẳng những gia đình ông mất đi một người chồng, người cha, người ông rất đáng kính, mà cả người dân vùng đất phương Nam cũng cảm thấy mất đi một bậc hào kiệt tài danh đầy lòng nhân ái. Chính vì vậy mà ngày làm lễ phát tang, người ta thấy cả rừng người đến phúng viếng, và tất cả nhân viên cũng như bệnh nhân của Dưỡng Trí Viện Biên Hòa đều để tang và quỳ trước linh cửu một vị Thầy, một người cha chung của tất cả các bệnh nhân khi linh cữu của ông được đưa ngang qua bệnh viện. Tất cả nhân viên và bệnh nhân tại Dưỡng Trí Viện Biên Hòa ai nấy đều nói rằng “Phải là người có lòng kiên nhẫn và có một tâm hồn cao cả, không thích xa hoa phù phiếm của cuộc sống ở thị thành, trừ Bác sĩ Hoài, chắc không còn vị Bác sĩ thứ hai nào chịu bền lòng hy sinh đến thế.” Đến tháng 11 năm 1955, chánh phủ VNCH đã cho lấy tên của Bác sĩ Nguyễn Văn Hoài đặt tên cho Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, và đoạn đường quốc lộ 1, từ cầu trung tâm Cải Huấn Tân Hiệp chạy đến trước Bộ Chỉ Huy Quân Y cũng được mang tên ông. Từ ngày bác sĩ Nguyễn Văn Hoài qua đời đến nay, hàng năm vào ngày 28 tháng 5, toàn thể ban Giám Đốc và nhân viên bệnh viện Tâm Trí Biên Hòa đều có tổ chức ngày kỵ giỗ cho ông.
(Con đường mang tên bác sĩ Nguyễn Văn Hoài tại Sài Gòn)
(Di ảnh bác sĩ Nguyễn Văn Hoài lúc qua đời 1955)
Người viết tập sách nầy rất tự hào được làm người đồng hương Vĩnh Long của bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, một trong số những người Việt Nam rất được người Tây phương kính trọng vì tấm lòng từ bi bác ái, một bậc hào kiệt tài danh đầy lòng nhân ái, rất đáng kính, lúc nào cũng hết mực thương yêu đồng loại, nhất là những người có hoàn cảnh không may mắn. Thật là đáng được tự hào và đáng được tưởng nhớ làm sao một tấm gương vị tha bác ái. Tấm lòng bác ái nhân hậu của ông chẳng những được những người có hoàn cảnh không may mắn của vùng Đất Phương Nam ghi nhớ, mà nó sẽ mãi mãi là tấm gương sáng chói cho đàn hậu bối chúng ta noi theo!
( Hình vẽ chân dung Bác Sĩ Nguyễn Văn Hoài, được một bệnh nhân tên Lê Văn Tường vẽ tặng cho gia đình bác sĩ Hoài sau khi được xuất viện vào năm 1960. Đến năm 1995, ông Nguyễn Văn Thuyết, con trai bác sĩ Hoài, đã hiến tặng bức chân dung nầy cho Bệnh Viện Tâm Thần Biên Hòa.)
Hình 1: Bên ngoài Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, 1934*.
Hình 2: Bên trong Dưỡng trí viện Biên Hòa 1925*.
Hình 3-4: Bên trong Dưỡng Trí Viện Biên Hòa 1934*.
Hình 5: Những dãy giường cho bệnh nhân, 1934*.
Hình 6: Dưỡng Trí Viện Biên Hòa 1955*.
Hình 7: Con đường mang tên Bác Sĩ Nguyễn Văn Hoài tại Sài Gòn.
Hình 8: Di ảnh Bác Sĩ Nguyễn Văn Hoài lúc qua đời vào năm 1955*.
Trót yêu bóng mát quê nhà Biện Lý thổn thức hương hoa nhẹ nhàng Kim Phượng *** Cảm Tác:
Hồn Quê
Từ xa quê vẫn nhớ nhà da diết Mùi ngọc lan thơm ngát mảnh vườn xưa Bờ giậu thưa nghiêng ngả mấy cây dừa Trời xanh ngắt trên tàng cau cao vút Hàng dâm bụt khoe màu hoa đỏ chót Mít chín vàng ngây ngất tỏa không gian Luống rau tươi mơn mởn giọt sương sa Khế, na, ổi xum xuê bên bờ giếng Hai đầu hiên có thêm vài chậu kiểng Giàn mướp non lủng lẳng trái con con Dạ lý hương thoang thoảng dưới trăng tròn Đêm sâu thẳm ngắm Hằng Nga yểu điệu Ôi cảnh tượng quê nhà sao tuyệt diệu! Hình ảnh xưa thôi thúc kẻ tha phương Ước bao giờ được thăm lại quê hương Cho vơi bớt nỗi sầu vương xa xứ.
Nàng có ba người anh đi bộ đội Những em nàng có em chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh *** Tôi người Vệ-Quốc-Quân xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp-hôn nàng không đòi may áo mới Tôi mặc đồ quân-nhân đôi giày đinh bết bùn đất hành quân Nàng cười xinh-xinh bên anh chồng độc-đáo Tôi ở đơn-vị về cưới nhau xong là đi *** Từ chiến-khu xa nhớ về ái-ngại Lấy chồng đời chiến-binh mấy người đi trở lại! Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé-bỏng chìều quê *** Nhưng không chết người trai khói-lửa mà chết người gái nhỏ hậu-phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh Tóc nàng xanh-xanh ngắn chưa đầy búi Em ơi! Giây phút cuối không được nghe nhau nói Không được trông nhau một lần... *** Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím Áo nàng mầu tím hoa sim Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa!... *** Một chiều rừng mưa ba người anh từ chiến-trường Đông Bắc Biết tin em gái mất trước tin em lấy chồng! Gió thu về rờn-rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên ngỡ-ngàng nhìn ảnh chị Khi gió thu về cỏ vàng chân mộ chí! Chiều hành-quân qua những đồi hoa sim Những đồi hoa sim Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết, Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền-biệt... Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa: “Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu” *** Ai hát vô-tình hay ác-ý với nhau Chiều hoang tím có chiều hoang biết Chiều hoang tím tím thêm màu da-diết... Nhìn áo rách vai tôi hát trong mầu hoa: “Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh mất sớm...!” Mầu tím hoa sim tím tình tang lệ rớm... *** Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân-hành Vang-vọng chập-chờn theo bóng những binh-đoàn Biền-biệt hành-binh vào thăm-thẳm chiều hoang mầu tím... *** Tôi ví vọng về đâu Tôi với vọng về đâu? -- áo anh nát chỉ dù ... lâu!
Hữu Loan *** The Purple Colour of Downy Rose Myrtle Flower by Huu Loan
She has three brothers who joined the army Some of her younger brothers have not learned to speak properly While her long hair is still black and shiny *** I, a National Guard, who have been away from my own family Who love her as much as I do my younger sister, and as dearly She does not insist on wearing a new dress on her wedding day I am in my army uniform, with muddy shoes from missions far away She smiles prettily, standing beside the husband who looks so interesting I, having returned from my company, depart again right after the wedding *** From the distant battle zones, I think of her with great concern Marrying a soldier in war time, who can guarantee for his own return! If, by chance, my return could not come to be Then what a pity for the little wife who stays back, waiting in the country *** But death does not happen to the man living in the fury of the battlefront But it does to the tiny girl who lives in the rear region I could not see her face in my homecoming My mother sits beside her grave while darkness is covering The vase in wedding day becomes the incense bowl, in a coldness so deadly While her hair, not yet a full bun, is still black and shiny Alas, my love! I cannot hear your dying whispering the last time Nor can I see your lovely face only for the last time... *** She used to love, with all her heart, the purple downy rose myrtle flower She wore no other colours except the downy rose myrtle flower’s colour She used to stay up late under the light of a little oil lamp by herself To mend her husband’s old shirt so he could be looking well! *** One rainy day, her three brothers in the Northeast battlefront far away Receive the news of her passing away before that of her wedding day! While the autumn winds ruffle the surface of the home river The growing little brother looks strangely at his sister’s picture Autumn winds blow; the grass at her stele’s bottom becomes yellower! The afternoon operation passes the hills full of downy rose myrtle flowers Oh those hills full of downy rose myrtle flowers Hills full of downy rose myrtle flowers that are furthest and endless The flower’s purple colour makes you feel the blue the deepest... Someone recites the old proverb as if it is in a song’s rhyme: “My shirt has the threads loosened at the hem for so long a time I am not yet married, and my old mother has not mended it for some time” *** Who knows whether the proverb is sung unintentionally, or intentionally Only a desolate afternoon appreciates a blue purple afternoon fully O purple, the colour of which deepens as the tormenting lovesick colour... Looking at the shoulder-torn shirt, I sing against the colour of the flowers: “My shirt has the threads loosened at the hem for so long a time My wife has passed away at early age for some time...!” The purple colour of the downy rose myrtle flower still makes me cry... *** Ghostly golden clouds are on the skyline and the sound of a horn’s march Echoing, flickering, and shadowing the companies of army who depart Away for operations into a deepest purple afternoon, as it is in your heart... Where can I recite the proverb to? And where and who can I reach to? --- My shirt’s threads have broken ... for so long too!
Translated from Vietnamese into English by Hương Cau Tân Cao on 09 July, 2019 in British Columbia, Canada