Thứ Tư, 24 tháng 10, 2018

Đọc Tiểu Thanh Ký - Bài Thơ Thất Niệm?


Độc Tiểu Thanh ký

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư, 
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. 
Chi phấn hữu thần liên tử hậu, 
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư. 
Cổ kim hận sự thiên nan vấn, 
Phong vận kỳ oan ngã tự cư. 
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp tố như?

Nguyễn Du

Dịch Nghĩa:

Đọc Truyện Nàng Tiểu Thanh

Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi hoang, 
Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi. 
Son phấn có linh hồn chắc phải xót chuyện xảy ra sau khi chết, 
Văn chương không có mệnh mà cũng bị liên luỵ, đốt đi còn sót lại một vài bài. 
Mối hận cổ kim, thật khó mà hỏi ông trời. 
Ta tự coi như người cùng một hội một thuyền với nàng là kẻ vì nết phong nhã mà mắc phải nỗi oan lạ lùng. 
Chẳng biết ba trăm năm sau, 
Người đời có ai khóc cho người con gái đẹp này chăng? Câu này còn có ý: Người đời có ai khóc cho tác giả (Tố Như) hay chăng?

Trong tài sản thi ca của Nguyễn Du, đây là bài thơ được hậu thế biết nhiều nhất sau Truyện Kiều. Một bài thơ có nhiều điểm giống với Truyện Kiều. Tác giả thương cảm cho nàng Tiểu Thanh, khiến tôi nhớ đến sự trùng hợp khi Kiều khóc trước mộ Đạm Tiên.

Trong một tình cờ vào ngày 21/12/2015, thấy trên Facebook của Ngọc Thạc Lê những dòng chữ:

"BÀI THƠ NỔI TIẾNG CỦA NGUYỄN DU CÒN NHIỀU Ý KIẾN TRANH LUẬN: SỰ PHÁ CÁCH CỦA MỘT THIÊN TÀI ? (Bài thơ bị thất niêm ở 2 câu cuối. Chữ thứ 2 câu thứ 7 phải thanh trắc, chữ thứ 2 câu thứ 8 phải thanh bằng mới đúng NIÊM).
Nguyễn Du là Đông Các Đại học sĩ, Cụ từng làm giám khảo các kỳ thi...
"Một người cầm cân nảy mực, đã đánh trượt bao nhiêu sĩ tử vì sai luật thơ Đường. Thế mà chính Cụ lại làm thơ thất niêm phá luật thì ăn nói làm sao với thí sinh và cả bạn văn đồng nghiệp. Phải chăng số phận bài thơ còn chứa nhiều uẩn khúc?" (Văn học và tuổi trẻ số tháng 1/2008). Ai biết uẩn khúc gì, xin chỉ giáo giùm!" 

Tôi chợt nhớ đến bài viết mình được đọc cách nay khá lâu, khoảng trên 6 năm của Linh Đàn. Sau đó, tôi có viết một bài về vấn đề này, năm sau (năm 2011), mới gởi đăng trên trang Web tongphuochiệp.com mà trước đây tôi từng cộng tác. Bài viết thể hiện quan điểm của tôi về nghi vấn của "Độc Tiểu Thanh Ký". 

Có khá nhiều nghi vấn về bài thơ nổi tiếng này của Thi hào Nguyễn Du. Chẳng hạn như nên sửa chữ Độc thành Đọc mới đúng; được Ông sáng tác trước hay sau khi đi sứ sang Tàu?; có người còn cho rằng không hề có bài thơ này vì hai câu cuối :

Bất tri tam bách dư niên hậu, 
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

chính là hai câu nói cuối cùng của ông trước khi từ giã cỡi đời...

Nhưng nghi vấn quan trọng nhất chính là thắc mắc của nhiều người, như nhà thơ Ngọc Thạc Lê của Hội thơ Đường Đồng Tháp trên: bài thơ Thất Niêm hay Phá Cách ở 2 câu cuối.
Chúng ta cùng đến với hai ý kiến của nhà thơ Linh Đàn và GS Nguyễn Khắc Phi:

1/ Ý kiến của nhà thơ Linh Đàn: (trích Newvietart.com)

"Ngày xưa các môn thi của các khoa thi Hương đều có "Thi, Lễ, Nhạc, Độc". Vậy Thơ Luật là bộ môn chính của trường thi.
Khoa Đinh Mão - Gia Long thứ 6 (1807)tại trường thi Hải Dương.
- Đề Diệu là Tham tri bộ Công Nguyễn Ngọc Ngoạn.
- Giám Thí Đốc học Quốc Tử Giám Nguyễn Viết Ưng.
- Giám Khảo là Đông các đại học sĩ Nguyễn Du.
Cả trường thi có biết bao sĩ tử dự thí, nhưng chỉ lấy đậu 5 người.

(Theo sách Quốc Triều Hương Khoa Lục của Cao Xuân Dục trang 95)

Như thế Nguyễn Du đã đánh hỏng biết bao thí sinh về bộ môn "Thi Luật" này? Thế mà Nguyễn Du lại làm thơ thất niêm thì biết ăn nói làm sao với thí sinh của Cụ, biết trả lời sao với khách văn chương và hậu thế? Hơn nữa, thời bấy giờ có các nhà uyên bác như Phạm Đăng Hưng là bạn quan trường, Phạm Quý Thích (viết tổng luận Truyện Kiều) và rất nhiều người bạn thơ nữa, nên cụ không thể vô tình làm thơ để cho thất niêm được.
Nói về một DỊ BẢN của bài thơ nầy, mà tôi xin giới thiệu dưới đây, tôi đã thuộc lòng vào đầu thập niên 1950 thì không hề bị thất niêm qua thiên hồi ức sau:

...Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), ở vùng Lan Đình, Gio Linh chúng tôi, việc học hành vô cùng khó khăn, trở ngại trăm bề, không thể đến trường học chữ Quốc ngữ được, nên phải ở nhà học chữ Hán. Thầy dạy chúng tôi là cụ cử nhân Trần Doãn Trai tham tri bộ Hộ hồi hưu...

... Thầy viết thư bảo tôi vào làng Hà Trung (phía nam huyện Gio Linh) đến nhà cụ Khôi (thuộc dòng thượng thư họ Trần Đình) mượn bộ sách “Thượng Thi Tập Ngâm” đem về sao chép. ...

... Tôi còn nhớ rất kỹ, chính tay tôi sao chép cả năm trường mới được hai quyển, vì hồi đó chiến tranh, phần thì phải trốn giặc Tây, phần thì ca non, moóc chê nổ bất thình lình, nên khi viết được khi không, chưa chép đến quyển Hạ thì cụ Khôi đến đòi lại, vừa trả sách được mấy hôm, Tây về đốt nhà Thầy lần thứ hai, cháy luôn hai quyển vừa mới chép, may mà trả lại được bộ cũ....

...Trong thời gian chép tay tôi thuộc được nhiều bài thơ, trong đó có bài ĐỘC TIỂU THANH KÍ, Thầy tôi say sưa với bài thơ này, rồi chúng tôi cũng ngâm theo Thầy, thành ra thuộc lòng như thế này: 

ĐỘC TIỂU THANH KÍ

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ...

Bài này không bị thất Niêm, Nhưng chưa từng thấy có trong văn chương nước nhà, nên tôi tạm gọi là dị bản..." 

(So dị bản của Linh Đàn chép tay và nguyên tác, chúng ta thấy ngoài hai Từ khác nhau là "mai uyển" và "hoa uyển"; vị trí của câu 1 và 2, còn một khác biệt rất lớn, làm thay đổi cấu trúc của bài thơ, đó là sự hoán đổi vị trí của cặp Thực và Luận. HHĐ)

2 / Ý kiến của GS Nguyễn Khắc Phi 

Gần đây, trong bài Tiểu Luận của Nguyễn Cẩm Xuyên đăng trên Kiến Thức Ngày nay số 896 ngày 20/72015, GS Nguyễn Khắc Phi có viết: 

“...Việc đặt Độc Tiểu Thanh ký bên cạnh Truyện Kiều trong chương trình Trung học phổ thông là một sự bố trí đẹp”. Vậy nhưng đến nay vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” còn nhiều khập khiễng làm cho người ta hoài nghi về lai lịch của nó:

Bài thơ bị thất niêm do chữ thứ nhì của câu đầu là chữ “hồ” (vần bằng) không niêm với chữ thứ nhì câu 8 là chữ “hạ”(vần trắc); chữ thứ nhì câu 6 là chữ “vận” (vần trắc) không niêm với chữ thứ nhì của câu 7 là “tri” (vần bằng). Ngoài thất niêm, bài thơ lại thất luật: 6 câu đầu thuộc luật bằng, 2 câu cuối thuộc luật trắc(1). Việc thất niêmthất luật này xảy ra với bài thơ chỉ do 2 câu cuối. Xem kĩ thì đây cũng không thuộc trường hợp do tác giả cố ý phá cách để tạo nét độc đáo trong nội dung. 

Về việc này, Học giả Nguyễn Quảng Tuân viết: “...Có phải Nguyễn Du muốn “phá cách” chăng? Chúng tôi không cho là như vậy, vì các bài thơ “phá cách” đều được phá ngay từ câu mở đầu, chứ không có trường hợp nào sáu câu đầu làm theo luật bằng và hai câu cuối lại làm theo luật trắc.

Ngoài ra còn có ý kiến được nhiều người ủng hộ là do chính Tác giả phá cách.


Qua các ý kiến trên,tôi thấy bài dị bản của nhà thơ Linh Đàn không ổn, vì ý thơ không có sự gắn kết liên tục. Một tài hoa như Thi hào Nguyễn Du sao lại sáng tác một bài thơ ngớ ngẩn đến thế?

Còn GS Nguyễn Khắc Phi thì cho rằng bài thơ Thất Niêm Luật.

Riêng cá nhân tôi, không cùng quan điểm với bất cứ ý kiến nào bên trên, kể cả ý kiến bài thơ do chính Tác giả phá cách.

Chúng ta cùng điểm lại các bài Đường Luật Thi của Ta cũng như Tàu có trước Nguyễn Du.
Ở Việt Nam, có Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong bài thơ Nhân Tình Thế Thái thứ 21 có tên Dĩ Hoà Vi Quý.

Dĩ Hoà Vi Quý 

Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu
Làm chi cho có sự đôi co
Ðấy cậy đấy khôn, đây chẳng nhịn
Ðây rằng đây phải, đấy không thua 
Duật nọ hãy còn đua với bạng
Lươn kia hầu dễ kém chi cò
Chữ rằng nhân dĩ hoà vi quý
Vô sự thì hơn kẻo phải lo 

Nguyễn Bỉnh Khiêm 

Không như Nguyễn Du ở hai câu cuối, Trạng Trình nhà Ta không theo Niêm ở hai câu Thực.
Bây giờ chúng ta nhìn sang Tàu, ngược dòng thời gian, tìm đến những nhà thơ nổi tiếng thời Đường:

- "Thành Tây Pha Phiếm Chu" của Đỗ Phủ:
Ở bài thơ này giống như bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Thanh nga hạo xỉ tại lâu thuyền
Hoành địch đoản tiêu bi viễn phương
Xuân phong tự tín nha tường động
Trì nhật từ khan cẩm lãm khiên
Ngư xuy tế lãng dao ca phiến
Yến xúc phi hoa lạc vũ diên
Bất hữu tiểu chu năng đãng tương
Bách hồ na tống tửu như tuyền

- "Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng Đài" của Lý Bạch:
Bài thơ này cũng như bài trên

Phượng hoàng đài thượng phượng hoàng du
Phượng khứ đài không giang tự lưu
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
Nhị thủy trung phân bạch lộ châu
Tổng vị phù vân năng tế nhật
Trường an bất kiến sử nhân sầu

- "Chước Tửu Dữ Bùi Địch" của Vương Duy:
Riêng bài thơ này thì xem như toàn bài.

Chước tửu dữ quân quân tự khoan
Nhân tình phiên túc tự ba lan
Bạch thủ tương tri do án kiếm
Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan
Thảo sắc toàn kinh tế vũ thấp
Hoa chi dục động xuân phong hàn
Thế sự phù vân hà túc vấn
Bất như cao ngọa thả gia san. 

Qua 5 bài thơ của các thi nhân: Thi Hào Nguyễn Du, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thi Thánh Đỗ Phủ, Thi Tiên Lý Bạch và Thi Phật Vương Duy, 5 nhà thơ có thể nói nổi tiếng vào bậc nhất trong nền thi ca của Việt và Tàu, gợi cho chúng ta điều gì?
Chẳng lẽ cả 5 người đều thất niêm hay phá cách giống như nhau?
Hay còn một nguyên nhân nào khác khiến các câu thơ Đối Bằng Trắc từng cặp một? Điều này thể hiện rõ nhất ở bài "Chước Tửu Dữ Bùi Địch" của Vương Duy.

Các câu 1; 3; 5; 7 có cùng Bằng Trắc hay nói chính xác hơn là Niêm với nhau.
Tương tự, các câu 2; 4; 6; 8 Niêm với nhau.
Qua nhận xét trên, chúng ta thấy các câu lẻ Niêm với lẻ. Các câu chẵn Niêm với chẵn.
Điều này hoàn toàn trái ngược với luật Niêm mà mọi người đều biết và sử dụng: 
- 1; 4; 5; 8 Niêm với nhau. 2; 3; 6 ;7 Niêm với nhau.

Kết Luận

Từ phân tích những bài Thơ Đường Luật ở trên, đã dẫn chúng ta đến một kết luận:
"Trong thơ Đường Luật trước đây đã tồn tại một luật Niêm thứ hai, nhưng ít được giới làm thơ ngày nay sử dụng (tương tự như thơ Đường Luật gieo vần Trắc), cũng như ít thấy tài liệu nào nói đến.
- Luật Niêm thứ nhất : 1 - 4 ; 2 - 3 ; 5 - 8 ; 6 - 7 . Luật Niêm thông dụng
- Luật Niêm thứ hai : 1 - 3 ; 2 - 4 ; 5 - 7 ; 6 - 8 . Luật Niêm ngày nay ít thấy sử dụng
- Hoặc sự pha trộn giữa hai luật niêm trên.

Vì thế, tôi cho rằng bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký không hề sai luật cũng như không hề phá cách. Tác Giả đã sử dụng cả hai luật Niêm khi sáng tác bài thơ này. 

Huỳnh Hữu Đức
Ngày Cuối Năm 2015


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét