Thu dường như ngập ngừng trước ngỏ, lòng khách tha hương nhớ quê nhà da diết, thương thân phận
mình nơi xứ người, rồi bỗng nhiên giựt mình thấy cái già xồng xộc quá nhanh. Thu lại về, lá vàng tan tác đầy sân!
Tâm sự của Nguyễn Du cũng là tâm sự chúng mình, ngơ ngác nhìn thời gian vun vút.
Xin gởi đến Bạn cảm tác của thi nhân nhìn mùa thu đến.
Chúc an vui
Thân kính
Mailoc
Thu Nhật Ký Hứng
Tây phong tải đáo bất qui nhân
Đốn giác hàn uy dĩ thập phần
Cố quốc hà sơn khan lạc nhật
Tha hương thân thế thác phù vân
Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị
Hà xứ thu thanh tạc dạ văn
Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập
Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân
Nguyễn Du
Dịch nghĩa:
Ngày thu cảm hứng
Gió tây mới đến người chưa về
Mà đã thấy khí trời lạnh lắm
Non sông nước cũ trông vẻ chiều tà
Thân thế đất người gửi đám mây nổi
Hôm nay chợt sợ cảnh già
Đêm qua nghe tiếng thu ở đâu nổi lên
Cười mình đầu bạc vụng thu xếp
Đầy sân lá vàng rụng tơi bời!
Dịch Thơ:
(1)
Gió tây vừa đến , khách tha hương
Đã thấy lạnh lùng với tuyết sương
Quê cũ núi sông chiều bóng xế
Xứ người thân thế áng mây nương
Hôm nay bỗng sợ cái già tới
Đêm trước đâu về tiếng nhạc vương
Đầu bạc cười mình còn vụng tính
Tơi bời sân trước lá thu vàng
Mailoc phỏng dịch
(2)
Người chưa về gió tây đang tới
Trời căm căm lạnh với tuyết sương
Cố hương sông núi chiều vương
Quê người thân phận mây nương la đà
Hôm nay kinh cái già mau quá!
Tiếng thu dường trong lá đêm qua
Bạc đầu chưa ổn cười ta
Vàng bay lác đác, lá đà đầy sân!
Mailoc
Cali 8-28-14
* * *
Thu Nhật Ký Hứng
Chớm thu người vẫn chưa về được
Trời lạnh mùa sang thấu nỗi hàn.
Nước cũ núi sông nhìn nắng tắt
Tha hương thân thế gửi mây tan.
Sáng nay chợt ngại cảnh già lão,
Đêm trước thoảng nghe gió thở than.
Tóc trắng cười ta thu vén vụng
Đầy sân lả tả lá rơi vàng.
Phạm Khắc Trí
2/9/2014
* * *
Bài thơ mà anh Mai Lộc giới thiệu tuần này là bài của Nguyễn Du, trích trong tập Nam Trung Tạp Ngâm. Thơ Nguyễn Du không dễ dịch, vì thường là thơ ngụ ý, tức mượn cảnh mà bày tỏ ý mình. Bài thơ làm tại đất thần kinh, tức ở Huế, sau vụ xử Nguyễn Thành khiến ông này phải tự tử và anh rể ông là Vũ Trinh bị vào tù. Ông không dám xin nghỉ lúc ấy vì sợ bị khép tội đồng lõa, sau này ông bị bệnh nhưng không chịu uống thuốc và để con bệnh giết ông.
秋日寄興 Thu Phong Ký Hứng
西風纔到不歸人 Tây phong tài đáo, bất quy nhân;
頓覺寒威已十分 Đốn giác hàn uy dĩ thập phần.
故國河山看落日 Cố quốc hà sơn, khan lạc nhật;
他鄉身世托浮雲 Tha hương thân thế thác phù vân.
忽驚老境今朝是 Hốt kinh lão cảnh, kim triêu thị;
何處秋聲昨夜聞 Hà xứ thu thanh, tạc dạ văn.
自哂白頭欠收拾 Tự thẩn bạc đầu, khiếm thu thập;
滿庭黃葉落分分 Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân.
阮攸 Nguyễn Du
Thơ Dịch:
Gởi Chút Hứng Nhân Ngày Thu
Gió tây vừa thổi, đã đâu về
Cái rét dầu hay, rất tái tê!
Nước cũ sơn hà, nom bóng tắt;
Tha hương thân thế, gởi mây quê.
Thoáng e cảnh lão, sáng nay bổng ...
Nào xứ, tiếng thu, đêm qua nghe ...
Tự diểu bạc đầu, thu nhập ít,
Ngập sân, lác đác, lá tư bề.
Danh Hữu dịch
Bài thơ này trích trong tập Nam Trung Tạp Ngâm, là tập thơ tác giả làm trong những ngày làm quan ở Huế. Bài thơ tuy không ký chú về trường hợp sáng tác, nhưng xét ý thơ thì chắc chắn là ông làm lúc anh rể ông, là Vũ Trinh, bị liên can và phải vào ngục trong vụ Nguyễn Thuyên, Nguyễn Thành.
Câu một : Gió tây (ở đây là chỉ Giặc rợ Hồ đến từ hướng tây, theo thơ Đường), là ám chỉ vụ bê bối chính trị, gió tây mới vừa thổi mà đã đâu phải xin về (tức trốn chạy). Bất quy là không xin nghỉ hưu.
Câu hai : Gió tây (đối với nước Tầu là rất lạnh). Tác giả muốn bảo là : tuy cũng biết ở lại là phải chấp nhận rủi ro, vì cái lạnh đó rất ác, có thể nguy đến tính mạng (dĩ thập phần)
Câu ba : Tác giả đã chứng kiến cảnh nhà Lê bị tan tác (lạc nhật). Cố quốc hà sơn là sơn hà của nước cũ tức nhà Lê. Khan lạc nhật là chứng kiến cảnh vua bị truất phế.
Câu bốn : Tác giả phải trốn chạy đến nơi khác. Tha hương là quê khác, chỗ khác, và tác giả lúc đó, chỉ còn biết phó thác cho cuộc sống tạm bợ; phù vân là cuộc sống trôi nổi.
Câu năm : Cảnh già đáng sợ, sáng nay mới chợt biết. Hàm ý là nếu mình mà xin nghỉ hưu thì cảnh già đến, mình sống ra làm sao (tức nói không lương bổng thì sống bằng gì). Hàm ý là mình đã kinh qua cái thời trẻ, bỏ quan trốn chạy, không lương hướng, sống thất thểu qua ngày.
Câu sáu : là nhắc tích Trương Hàn, khi nghe gió thu đến thì bỗng nhớ quê, nhớ món gõi cá vược mà xin từ quan, vua gọi cũng không quay lại. Hà xứ là nói một xứ khác, không phải xứ mình. Tạc dạ văn là đêm qua đọc thơ mà biết được chuyện xưa Trương Hàn.
Câu bảy : Tự thẩn là mỉm cười một mình : Cười mình bạc đầu mà chẳng để dành được gì nhiều. Muốn nói là mình thu nhập kém, nếu xin nghỉ hưu thì lấy gì sống.
Câu kết : Lá vàng lác đác mà đã rơi đầy sân. Ngụ ý cái việc ông không rút lui mà lời bàn tán của thiên hạ đã như lá vàng ngập cả sân. Hàm ý có nhiều chê trách.
Bài thơ này tóm lại, là bài thơ ông tự thanh minh việc ông không rút lui khi anh rể ông bị vua Gia Long bắt bỏ tù vì tội bênh học trò.
***
Ngày Thu cảm Hứng
Gió tây đến người chưa về
Bầu trời lạnh buốt tái tê cõi lòng
Trông chiều nhớ nước núi sông
Xứ người trôi nổi lòng vòng mây trôi
Tấm thân gầy guộc già rồi
Đêm qua nghe tiếng thu rơi não buồn
Bạc phơ mái tóc hoàng hôn
Đầy sân lá rụng thu buông gió sầu
Trầm Vân
***
Ngày Thu Cảm Hứng Viết
Gió tây vừa đến khách chưa về
Cái lạnh mươi phần thật rét tê
Chốn cũ non sông ngày tắt nắng
Mây bồng thân phận kẻ xa quê
Sáng nay hoảng thấy mình già đến
Đêm trước chợt nghe thu não nề
Cười trách bạc đầu gom góp kém
Ngoài sân lá rụng phủ ê hề
Quên Đi
***
Ngày Thu Cảm Hứng
(Họa y đề bài thơ của Quên Đi)
Tôi biết anh đi sẽ trở về
Dù đời chất ngất những buồn tê
Súng gươm trả lại thời chinh chiến
Hành lý mang đầy bóng xóm quê
Thế giới bao dung dần hội nhập
Non sông tệ bạc vẫn không nề
Hoàng hôn đất khách thêm khao khát
Lữ khách hồi tâm nhất khứ hề
Nguyễn Đắc Thắng
6/9/2014
***
Ngày Thu Cảm Hứng
Gió tây về bóng ai biền biệt
Da diết lòng cơn lạnh thấm sâu
Màu xế chiều quê xưa nỗi nhớ
Xứ người thân tựa áng mây trôi
Sáng ngày trông thấy già đâm hoảng
Đêm tối qua đâu đó tiếng thu
Thâu kém bạc đầu đây tự giễu
Đìu hiu vàng lá ngập đầy sân
Kim Phượng
***
Gởi Hứng Ngày Thu
Gió tây vừa thổi kẻ tha phương
Chợt thấy hơi thu lạnh buốt xương.
Chiều xuống thẩn thờ trông cố quốc,
Mây trời trôi nổi gởi tha hương.
Sáng soi gương lạnh chừng ngơ ngác,
Đêm lắng tiếng thu luống đoạn trường.
Không khéo lo toan già lẩn thẩn,
Đầy sân lá úa rụng muôn phương!
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét